








Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa “vật chất” và “ý thức”, hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ bản thân sinh viên hiện nay?”
Typology: Thesis
1 / 14
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
Tên sinh viên: Mã sinh viên: Lớp: 102_I.Triết học Mác - Lê-nin_1.2(15FS).1_LT Năm học: 2021- HÀ NỘI – 2022
1.Phân tích và chứng minh Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
1.Phân tích và chứng minh Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức 1.1. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, bởi vì: Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức. Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức. Từ đó, có thể thấy được vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh sau: 1 .1.1. Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra,cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính bộ phận của con người -cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
1.1.2 Vật chất quyết định nội dung của ý thức Ý thức dưới bất kì hình thức nào, suy cho cùng, đề là phản ánh hiện thực khách quan. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội – lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại. 1.1.3. Vật chất quyết định bản chất của ý thức Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không thể tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”,”chụp ảnh” hoặc là “phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ứng tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh. 1.1.4. Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người – một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần , thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
2. Phân tích và chứng minh: Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: 2.1. Phân tích sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: 2.1.1. Ý thức có tính độc lập tương đối Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất 2.1.2. Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức không phải là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu biết về hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được
hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, tư đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổi bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" 2.1.3. Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người Có nghĩa, ý thức có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực,có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc,xuyên tạc hiện thực Từ đó, có thể thấy sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện những mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật. Hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan. Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có
3. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ bản thân sinh viên hiện nay 3.1. Ý nghĩa của phương pháp luận Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận 3.1.1. Tôn trọng tính khánh quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan Mọi nhận thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. 3.1.2. Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức Cần phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ; phải coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên,bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. Đồng thời, phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan. 3.1.3. Thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan Chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình
3.2. Liên hệ thực tiễn tới bản thân sinh viên 3.2.1. Liên hệ thực tiễn đầu tiên Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu, những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra. Cần rèn luyên bản thân nắm vững quan điểm thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều. Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng 3.2.2. Liên hệ thực tiễn thứ hai Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ. Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn mang tính thứ nhất, tính quyết định, ý thức luôn mang tính thứ hai, bị chi phối, bị quyết định. Song, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng quan trọng đối với vật chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý muốn, nhưng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không phát triển, bị kìm hãm. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta – Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội nếu như: Mọi đường lối, chính sách, phương hướng mục tiêu đề ra, hoạch định ra phải được xuất phát từ thực tế điều kiện nước nhà. Thứ hai chúng ta phải phát huy cao độ vai trò tích cực của ý thức hay chính là vai trò năng động chủ quan của con người. Xây dựng hệ động lực tinh thần mạnh mẽ cổ vũ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đaịo của toàn Đảng và nhân dân ta. Đó chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, đó là “khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo làm lạc hậu”. Đồng thời, chúng ta cũng cần tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một điều hết sức quan trọng đó là làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các thành phần kinh tư bản lại vừa tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một vấn đề cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta cần có phương hướng đi sao cho phù hợp.