Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

tiểu luận cuối kì môn học toàn cầu hóa, Assignments of Global Economics

tiểu luận cuối kì môn học toàn cầu hóa 2023

Typology: Assignments

2022/2023

Uploaded on 05/25/2024

duyen-bui-phuong
duyen-bui-phuong 🇻🇳

3 documents

1 / 18

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
(Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế)
*****
BÀI TẬP LỚN CUỐI KỲ
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Xuân Thiên
Sinh viên thực hiện: Bùi Phương Duyên
Mã sinh viên: 21050814
Tên học phần: Toàn cầu hóa & Khu vực hóa trong nền kinh tế thế
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12

Partial preview of the text

Download tiểu luận cuối kì môn học toàn cầu hóa and more Assignments Global Economics in PDF only on Docsity!

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

( Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế )

BÀI TẬP LỚN CUỐI KỲ

Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Xuân Thiên Sinh viên thực hiện: Bùi Phương Duyên Mã sinh viên: 21050814 Tên học phần: Toàn cầu hóa & Khu vực hóa trong nền kinh tế thế

giới Mã lớp học phần: INE 3109 2 Hà Nội - tháng 12 năm 2023 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

( Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế )

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan bài tiểu luận “Trình bày và phân tích một trong các thách thức của toàn cầu hóa đặt ra cho các nước đang phát triển mà bạn cho là tâm đắc nhất và hãy nói rõ ý nghĩa của việc nghiên cứu thách thức này đối với thực tiễn Việt Nam” là một công trình nghiên cứu độc lập của riêng em không có sự sao chép của người khác. Đề tài nghiên cứu trên là một sản phẩm mà em đã nỗ lực nghiên cứu trong quá trình học tập. Trong quá trình thực hiện em còn có nhiều thiếu sót và hạn chế về kiến thức mong thầy cô giúp đỡ. Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực và nội dung trong bài tiểu luận của em. Em mong nhận được những lời góp ý của thầy để hoàn thiện bài viết này hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

PHẦN MỞ ĐẦU

  1. Lý do chọn đề tài Toàn cầu hóa là một quá trình mang tính khách quan của thời đại, đã đang và sẽ có ảnh hưởng và tác động không nhỏ đến những lĩnh vực mà nó lướt qua trên thế giới này. Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại nó đã xuất hiện ở thế kỷ XV và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và bản chất của quá trình toàn cầu hóa. Nhưng dù xuất hiện sớm hay muộn thì trong thời đại hiện nay, toàn cầu hóa mang một nội dung với những nét đặc thù mới. Một số học giả gọi toàn cầu hóa hiện nay là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, quá trình đó đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản lớn. Nhìn chung các nước giàu ca ngợi toàn cầu hóa và chỉ nhấn vào mặt thuận lợi của nó. Họ cho rằng đây là cơ hội để các nước nghèo và các nước đang phát triển tranh thủ vươn lên thóat khỏi đói nghèo và trở nên giàu có như những con rồng, con hổ châu Á... Còn các nước nghèo và các nước đang phát triển thì lo lắng, trăn trở trước những khó khăn, thách thức và mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia, dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại. Cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hóa là hết sức khác nhau. Song, bất chấp thái độ ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hóa vẫn là một xu thế tất

KHUNG PHÂN TÍCH

Thách thức về chuyển đổi số và năng lực cạnh tranh Thách thức về chuyển đổi số và năng lực cạnh tranh

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU

HÓA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

1.1. Cơ sở lí luận về toàn cầu hóa. 1.1.1. Khái niệm về toàn cầu hóa Toàn cầu hóa về bản chất được hiểu là sự lan truyền của các sản phẩm, công nghệ, thông tin, việc làm xuyên biên giới và văn hóa quốc gia. Về mặt kinh tế, hiện tượng này mô tả sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia trên toàn cầu được thúc đẩy thông qua thương mại tự do. Ta nhận thấy, toàn cầu hóa cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau vì khái niệm này tương đối lớn. Ở mỗi một giai đoạn và thời kì chúng lại có sự chuyển dịch thay đổi để phù hợp với tình hình chung của thế giới. Do đó ta nên hiểu chung toàn cầu hóa là sự kết nối giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới. Về mặt tích cực, toàn cầu hóa được sử dụng để có thể nâng cao mức sống ở các nước nghèo và kém phát triển bằng cách tạo ra cơ hội việc làm, hiện đại hóa và cải thiện khả năng tiếp cận hàng hóa và dịch vụ. Mặt khác, toàn cầu hóa có thể lấy đi cơ hội việc làm ở các nước phát triển có mức lương cao hơn khi việc sản xuất hàng hóa di chuyển qua các nước khác. Động cơ toàn cầu hóa là lí tưởng và chủ nghĩa cơ hội, nhưng sự phát triển của một thị trường tự do toàn cầu đã mang lại lợi ích cho các tập đoàn lớn ở phương Tây. Tác động của toàn cầu hóa có cả xấu lẫn tốt đối với công nhân, văn hóa và các doanh nghiệp nhỏ, trong cả các quốc gia phát triển và mới nổi. 1.1.2. Các đặc điểm của toàn cầu hóa Toàn cầu hóa được hiểu là một hiện tượng kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và pháp lý. Về mặt kinh tế: cho phép các tập đoàn tận dụng lợi thế so sánh, giảm chi phí nhân công, chi phí nguyên liệu, có thêm nhiều khách hàng Về mặt xã hội: dẫn đến sự tương tác lớn hơn giữa cư dân ở các vùng khác nhau Về mặt văn hóa: đại diện cho sự trao đổi ý tưởng, giá trị và biểu hiện nghệ thuật giữa các nền văn hóa và cũng đại diện cho một xu hướng phát triển văn hóa thế giới duy nhất. Về mặt chính trị: tạo sự chú ý cho các tổ chức liên chính phủ như Liên Hợp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới Về mặt pháp lý: thay đổi cách thức luật pháp quốc tế được tạo ra và thực thi Việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa hiện đại hóa cho phép các quốc gia có cơ hội phát triển đất nước và con người. Từ đó tạo ra những giá trị cuộc sống mới. Thay đổi đời sống nhận thức cũng như tưởng tượng của công dân nước mình theo chiều hướng hiện đại. Toàn cầu hóa mang đến sự công bằng trong cạnh tranh xã hội, đời sống con người ngày càng được cải thiện rõ rệt. Quyền sống và quyền con người được ưu tiên hàng đầu. Các sáng kiến mới cho đời sống xã hội và kinh tế được mở rộng tạo môi trường phát triển tri thức nhân loại. Là sự kết nối bền vững từ bên trong mỗi công dân chứ không đơn thuần là những vỏ bọc bên ngoài. 1.1.3. Ưu nhược điểm của toàn cầu hóa 1.1.3.1. Ưu điểm của toàn cầu hóa Những người ủng hộ toàn cầu hóa tin rằng toàn cầu hóa cho phép các nước đang phát triển bắt kịp các quốc gia công nghiệp thông qua việc tăng cường sản xuất, đa dạng hóa, mở rộng kinh tế và cải thiện mức sống.

vào các nước đang phát triển tăng lên 198 tỷ USD, trong đó 97 tỷ USD vào Mỹ Latinh (Brazil chiếm 31 tỷ), 91 tỷ USD vào Châu Á (riêng Trung Quốc chiếm 40 tỷ). Toàn cầu hóa đã tạo ra sự biến đổi và gia tăng cả về lượng và chất dòng luân chuyển vốn vào các nước đang phát triển, nhất là trong khi các nước đang phát triển đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn đầu tư cho phát triển. Chẳng hạn, lượng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển tăng khá nhanh: 1980: 30 tỷ USD; 1990: 60 tỷ USD; 1996: gần 200 tỷ USD; năm 1997 các nước đang phát triển thu hút tới 37% lượng vốn FDI toàn thế giới. Trong dòng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển thì dòng vốn tư nhân ngày càng lớn. 1 .2.1..3. Nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ Trước xu thế toàn cầu hóa, các nước đang phát triển tuỳ theo vị thế, điều kiện lịch sử cụ thể và trình độ phát triển của mình đều có cách thức riêng phát triển theo con đường rút ngắn. Hai trong số nhiều con đường phát triển là: Du nhập kỹ thuật - công nghệ trung gian từ các nước phát triển để xây dựng những ngành công nghiệp của mình như là một bộ phận hợp thành trong tầng công nghiệp hiện đại. Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ... mà các nước đang phát triển lựa chọn một hoặc cùng lúc cả hai con đường phát triển nói trên. Toàn cầu hóa cho phép các nước đang phát triển có điều kiện tiếp nhận các dòng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát triển để nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ của mình. Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào khả năng của từng nước biết tìm ra chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp. Trong quá trình toàn cầu hóa, các nước đang phát triển có điều kiện tiếp cận và thu hút những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng dần trình độ công nghệ sản xuất của các nước đang phát triển. Do vậy, mà ngày càng nâng cao được trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa, được đánh giá như một công cụ đặc hiệu để nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ ở các nước đang phát triển. Bởi lẽ, trong quá trình tham gia vào liên doanh, liên kết sản xuất quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự án FDI... các nước đang phát triển có điều kiện tiếp cận những công nghệ, kiến thức và kỹ năng hết sức phong phú, đa dang của các nước đang phát triển. 1 .2.1.4. Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực Toàn cầu hóa đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nước đang phát triển phải tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nhưng ở các nước phát triển những ngành có hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng vốn lớn... đang chiếm ưu thế, còn ở những nước đang phát triển chỉ có thể đảm nhận những ngành có hàm lượng cao về lao động, nguyên liệu và hàm lượng thấp về công nghệ, vốn. Tuy nhiên, nếu nước đang phát triển nào chủ động, biết tranh thủ cơ hội, tìm ra được con đường phát triển rút ngắn thích hợp, thì có thể vẫn sớm có được nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn. Quá trình toàn cầu hóa sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi cao và nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi nước, muốn phát triển, không còn con đường nào khác là phải hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế nào bắt kịp dòng vận động chung thì phát triển, không thì dễ bị tổn thương và bất định. Mỗi nước đang phát triển cần phải tìm cho mình một phương thức để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thích hợp để có thể phát triển rút ngắn. Hầu hết các nền kinh tế của các nước đang phát triển đều tiến tới mô hình kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế dựa vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến. Đây là một mô hình kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhưng nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế đòi hỏi chính phủ các nước phải có quan niệm đúng và xử lý khéo quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ ở mức cần thiết; đồng thời phải nắm bắt được các thông lệ và thể chế kinh tế bên trong, giải quyết đúng đắn việc kết hợp các

nguồn lực bên ngoài thành nội lực bên trong để phát triển. Nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế muốn phát triển ổn định, đòi hỏi cơ cấu kinh tế bên trong phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu đa dạng, thể chế kinh tế linh hoạt và có năng lực thích ứng để đương đầu với những thay đổi của các điều kiện phát triển toàn cầu. Điều đó buộc các nước đang phát triển phải tìm ra con đường công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp. Nhiều nước chọn mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, dựa vào tăng trưởng các sản phẩm công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo sẽ giúp nền kinh tế các nước đang phát triển nhanh chóng chuyển được nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước chuyển tới nền kinh tế tri thức. Sự dịch chuyển này đến đâu phụ thuộc vào trình độ thích ứng về tiếp nhận công nghệ, khả năng về vốn, khai thác thị trường. Dù bước chuyển dịch ở trình độ nào, nền kinh tế ở các nước đang phát triển đều chú trọng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ; đồng thời tập trung nỗ lực phát triển các ngành có khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế của nhiều nước đang phát triển đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thay đổi, chất lượng hàng hoá xuất khẩu được nâng lên theo hướng đạt các tiêu chuẩn quốc tế, tỷ trọng sản phẩm qua chế biến đã tăng từ 5,65% (năm 1980) lên 77,7% (năm 1994). Toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia cơ cấu lại nền kinh tế của mình. Nền kinh tế toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng, thì nền kinh tế của các nước đang phát triển, nếu muốn phát triển, không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới. Các nước phải bắt kịp các động thái của dòng vận động tiền vốn, kỹ thuật - công nghệ, hàng hoá - dịch vụ khổng lồ của thế giới. Tính bất định và mức độ dễ bị tổn thương với tính cách là hệ quả của những động thái này đang ngày càng gia tăng, nhất là đối với nền kinh tế các nước đang phát triển. 1 .2.1.5. Mở rộng kinh tế đối ngoại Toàn cầu hóa làm cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hướng tất yếu và diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Và chỉ bằng cách đó mới có thể khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Đồng thời, toàn cầu hóa quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế càng đẩy mạnh thì càng tạo ra những cơ hội và thách thức mới mà chỉ có sự phối hợp quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại thì mới có thể tranh thủ được những cơ hội, vượt qua được những thách thức. Thực tế lịch sử cũng đã khẳng định rằng: ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không thiết lập quan hệ kinh tế với các nước khác, và do vậy không một quốc gia nào, kể cả các nước đang phát triển, lại không thực hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong hoàn cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, quá trình toàn cầu hóa được thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi nước, nhất là những nước đang phát triển. 1 .2.1.6. Cơ sở hạ tầng được tăng cường Quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra cơ hội để nhiều nước đang phát triển phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, về bưu chính viễn thông, về điện, nước... ở các nước đang phát triển, mức thu nhập tính theo đầu người rất thấp, do đó tích luỹ cũng vô cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh hoạt. Trong khi đó các nước đang phát triển lại rất cần những lượng vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng những công trình thiết yếu nhằm phát triển kinh tế. Bởi vậy, xuất hiện khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư và tích luỹ vốn. Cho nên các nước đang phát triển muốn tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng thì phải biết tạo môi trường thuận

chính sách phát triển quốc gia của họ. Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, tầm quan trọng của nguyên liệu thô và lao động kỹ năng thấp đang giảm dần, trong khi lao động kỹ năng và tri thức ngày càng trở nên quan trọng. Lợi thế đang ngày càng nghiêng dần về phía các nước phát triển. 1 .2.2.3. Nợ nần của các nước đang phát triển tăng lên Sau một thời gian tham gia toàn cầu hóa, nợ nần của nhiều nước đang phát triển ngày càng thêm chồng chất. Khoản nợ quá lớn (trên 2200 tỷ USD) là gánh nặng đè lên nền kinh tế của các nước đang phát triển, nó là lực cản kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này. Theo báo cáo của WB về tình hình tài chính toàn cầu năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP của Brazil là 24%, Mexico là 38%, Indonesia là 65%, Philippines là 51%... Những khoản nợ quá lớn đang làm cho nền kinh tế một số nước đang phát triển ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế các nước chủ nợ, mà chủ yếu là các nước tư bản phát triển. Có những nước khoản vay mới không đủ dể trả lời những khoản vay cũ. Điều đó càng làm cho nền kinh tế một số nước đang phát triển lâm vào bế tắc, không có đường ra, dẫn đến vỡ nợ, phá sản. Toàn cầu hóa như cỗ xe khổng lồ nghiền nát nền kinh tế một số nước bị vỡ nợ. 1 .2.2.4. Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém Toàn cầu hóa đã làm cho vấn đề cạnh tranh toàn cầu trở nên ngày càng quyết liệt. Xuất phát điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia khác nhau, nên cơ hội và rủi ro của các nước là không ngang nhau. Nền kinh tế của các nước đang phát triển dễ bị thua thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang sức này. Càng phải phá bỏ hàng rào bảo hộ thì thách thức đối với các nước đang phát triển càng lớn. Chính sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ năng tổ chức nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ làm cho chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển sẽ ngày càng cách xa hơn. Từ đó cho thấy rằng: việc áp dụng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng cho các nước có trình độ kinh tế khác xa nhau thực chất là một sự bất bình đẳng. Trên một sân chơi ngang bằng, cạnh tranh “bình đẳng” những nền kinh tế lớn mạnh, những công ty có sức mạnh nhất định sẽ chiến thắng những nền kinh tế còn kém phát triển, những công ty còn nhỏ yếu. Tính chất bất bình đẳng trong cạnh tranh quốc tế hiện nay đang đem lại những thua thiệt cho các nước đang phát triển. 1 .2.2.5. Mở rộng lãnh thổ, tăng thêm dân số. Trước khi CHXH ở Liên Xô và Đông Âu (cũ) tan rã, các nước đang phát triển trên thế giới là 163/191 quốc gia và khu vực. Hiện nay con số này là 180/210. Bởi lẽ các nước Liên Xô và Đông Âu là 9 nước, nay đã chia tách thành 28 nước. Điều đó làm cho dân số ở các nước đang phát triển hiện nay tăng thêm khoảng hơn 400 triệu, đất đai tăng thêm hơn 25 triệu km2. 1 .2.2.6. Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển tăng lên Quá trình toàn cầu hóa là quá trình làm tăng thêm sự phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các nước phát triển đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất của toàn thế giới, 3/4 phân ngạch mậu dịch quốc tế, là nơi đầu tư và thu hút chủ yếu các luồng vốn FDI (năm 1999 trong 827 tỷ USD tổng vốn FDI của thế giới, các nước phát triển chiếm 609 tỷ USD, riêng EU gần 300 tỷ USD, Mỹ gần 200 tỷ USD). Các Công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cũng chủ yếu nằm ở các nước phát triển. Các nước này cũng nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại nhất, các phát minh, sáng chế, bí quyết và các sản phẩm chất xám khác. Đây cũng là nơi liên tục thu hút được "chất xám" của toàn thế giới. Ngoài ra các thiết chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế như WTO. IMF, WB... đều nằm dưới sự chi phối của các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với những sức mạnh kinh tế to lớn như vậy, các nước phát triển đang chi phối nền kinh tế toàn cầu. Còn các nước đang phát triển thì nền kinh tế chưa đủ sức để chống đỡ được vòng xoáy của cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Do vậy mà các nước đang phát triển ngày

càng bị nghèo đi so với tốc độ giàu nhanh của các nước phát triển. Năm 1998, 24 quốc gia phát triển chiếm khoảng 17% dân số thế giới thì chiếm tới 79% giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn thế giới; còn các nước đang phát triển chiếm 83% dân số thế giới thì chỉ chiếm 21% giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn thế giới; 20% số dân thế giới sống ở những nước thu nhập cao tiêu dùng 86% số hàng hoá của toàn thế giới. 20% số dân nghèo nhất thế giới năm 1998 chỉ chiếm 1,1% thu nhập toàn thế giới, tỷ lệ đó năm 1991 là 1,4%, năm 1996 là 2,3%. Hiện nay, tài sản của 10 tỷ phú hàng đầu thế giới đã đạt 133 tỷ USD tương đương với 1,5 lần thu nhập quốc dân của tất cả các nước đang phát triển. 1 .2.2.7. Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động, tài nguyên... nhiều những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang các nước đang phát triển; việc các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước đang phát triển ngày càng trở nên xấu đi nhanh chóng. Hơn nữa, trong quá trình toàn cầu hóa sự phát triển của các nước phát triển không chỉ dựa vào tài nguyên giá rẻ, sức lao động rẻ, thị trường giá rẻ, hàng hoá và dịch vụ rẻ; mà còn dựa vào đầu độc môi trường sinh thái ở các nước đang phát triển. 2/3 rừng của thế giới đang bị phá huỷ và đang mất đi với tốc độ mỗi năm 16 triệu ha. Lượng gỗ dùng cho sản xuất giấy (gần như toàn bộ lấy từ các nước đang phát triển) thập kỷ 90 gấp đôi thập kỷ 50, mà tiêu dùng chế phẩm giấy của Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu chiếm 2/3 thế giới. Toàn thế giới mỗi năm có 2,7 triệu người chết vì không khí bị ô nhiễm, thì 90% số người đó là ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, mỗi năm còn có khoảng 25 triệu người bị trúng độc vì thuốc trừ sâu, 5 triệu người bị chết vì nhiễm bệnh do nước bị nhiễm bẩn… CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU THÁCH THỨC VỀ VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC ĐẶT RA VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA 2.1. Khái quát về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 2.1.1. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc Bản sắc văn hóa dân tộc là tập hợp các giá trị văn hóa, thứ tự xã hội, tập quán, và đặc điểm nghệ thuật đặc trưng cho một nhóm người cụ thể hoặc một cộng đồng dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc thường xuất phát từ lịch sử, địa lý, truyền thống, và ngôn ngữ riêng biệt của dân tộc đó. Nó thể hiện sự đa dạng và độc đáo của mỗi dân tộc trên thế giới. Đồng thời nó cũng giúp duy trì sự đa dạng và sự nhận thức về giá trị văn hóa của mỗi dân tộc. Nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định danh tính và tự hào của một nhóm người cụ thể. Bản sắc văn hóa là nét tinh hoa được hình thành trong quá trình lịch sử phát triển của dân tộc đó. Được con người tạo ra và thể hiện những nét riêng của dân tộc và gắn liền với sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia nào đó, một địa phương nào đó. 2.1.2. Vai trò, tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc  Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc, đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn định, bền vững bởi nó được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được với

tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát triển về mọi mặt để có thể “sánh vai” cùng các dân tộc khác trên trường quốc tế.  Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội. Ngày nay, trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc của chiến tranh, khủng bố đang hằng ngày hằng giờ cảnh báo cho loài người phải biết quan tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một nhân tố không thể thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội không chỉ là môi trường sống mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn hóa dân tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA 2.2.1. Tác động tích cực  Giao lưu văn hóa: 2.3. NGUY CƠ XÓI MÒN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA 2.2.1. Cơ hội Cơ hội lớn nhất của quá trình toàn cầu hóa đem lại cho các quốc gia đang phát triển là có thể tham gia các thị trường thế giới với tư cách một thành viên bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Đây chính là một trong những tiền đề cần thiết khích lệ CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA ĐỐI VỚI THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ CHO VIỆT NAM TRƯỚC XU THẾ TOÀN CẦU HÓA 3.1. Ý NGHĨA 3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ TOÀN CẦU HÓA

Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách chủ động, tích cực và tự giác. Chỉ có như vậy cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữu vai trò hạt nhân trong quá trình phát triển kinh tế và phát triển tiếng nói chung của dân tộc. Đây là một quá trình không thể nóng vội, nhưng cũng không thể chậm trễ mà cần được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có giáo dục và tự giác giáo dục trong chính cộng đồng dân tộc. Thứ hai, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải được quán triệt trong tổng hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Để chính sách đi vào được cuộc sống cần đảm bảo sự thống nhất trong tất cả các khâu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát từ đầu tư nguồn lực thích đáng. Mặt khác, phải xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vì sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ ba, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế phải do chính các chủ thể văn hóa thực hiện. Mọi nguồn lực bên ngoài chỉ phát huy hiệu quả khi chủ thể văn hóa có ý thức tự giác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Những giải pháp phát triển về kinh tế để đáp ứng những nhu cầu dân sinh phải gắn với nhu cầu bảo vệ đời sống tinh thần, bảo vệ abnr sắc văn hóa dân tộc. Muốn vậy, mọi chính sach đều phải gắn với cộng đồng dân tộc, tôn trọng quyền quyết định của cộng đồng dân tộc, đồng thời phải đầu tư nghiên cứu sâu sắc về những giá trị của văn hóa dân tộc để có những giải pháp phù hợp. Thứ tư, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có phương pháp, cách thức phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức, chạy theo phong trào làm phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó sẽ phát huy được tính sáng tạo trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, ngăn chặn sự bảo thủ, trì trệ hay phiêu lưu mạo hiểm trong phát triển của các dân tộc. Thứ năm, phát triển kinh tế và văn hóa phải gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đây là một trong những nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của dân tộc. Đặc biệt việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không gian văn hóa – nơi duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc. Thứ sáu, nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học – công nghệ và trình độ quản lý Nhà nước cho phù hợp với yêu cầu và tốc độ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ bảy, nâng cao tính sáng tạo của nền văn hóa dân tộc, mở rộng dân chủ, khai thác mọi tiềm năng, sáng tạo trong nhân dân, khuyến khích đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ, các nhà doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc. Thứ tám, đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận văn hóa nhằm bảo vệ các giá trị chân chính của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết đấu tranh vạch trần mọi lưu toan lợi dụng toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, du nhập các trào lưu tư tưởng trái với đường lối văn hóa của Đảng.