Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

thấy Việt Nam là một quốc gia nổi tiếng với nền chính trị hòa bình ổn định, không có chiến, Summaries of System Analysis and Design

thấy Việt Nam là một quốc gia nổi tiếng với nền chính trị hòa bình ổn định, không có chiến tranh hay các cuộc bạo động tranh chấp.  Đây là môi trường tốt cho doanh nghiệp phát triển, mở rộng, đầu tư mạnh hơn Từ khi thương mại điện tử xuất hiện tại nước ta, nhà nước đã ban hành rất nhiều bộ luật nhằm tạo khung pháp lý cho sự phát triển của ngành. Ban đầu là sự mô phỏng theo luật pháp của thế giới, sau đó theo thời gian chính phủ đã có các biện pháp thay đổi bổ sung để các bộ luật dần được hoàn thiện và nâng cao, phù hợp với môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Nhưng song song với nền chính trị ổn định thì hệ thống pháp luật trong nước lại quá phức tạp, các thủ tục hành chính lại quá rườm rà, phức tạp. Ta có thể thấy, sau khi nhà nước mạnh tay thực hiện cải cách pháp luật, xây dựng hệ thống hành chính 1 cửa thì lại nảy sinh vấn đề là trong 1 cửa đó lại có nhiều bàn.  Gây không ít khó khăn cho LAZAĐA trong các hoạt động pháp lý, giấy

Typology: Summaries

2023/2024

Uploaded on 03/01/2024

linh-pham-ngoc-2
linh-pham-ngoc-2 🇻🇳

1 document

1 / 19

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
----------
TIỂU LUẬN
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
NHÓM 1: QL26.02
Chủ đề 1: Vai trò của thương mại đối với thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Liên hệ thực tiễn
tác động của thương mại trong một lĩnh vực sản
xuất ở VN.
(Công ty LT TP An Giang)
Giáo viên hướng dẫn: Thân Danh Phúc
Nhóm sinh viên thực hiện:
Lê Văn Thành 2621215299 QL26.02
Phạm Huy Hạnh 2621215486 QL26.02
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13

Partial preview of the text

Download thấy Việt Nam là một quốc gia nổi tiếng với nền chính trị hòa bình ổn định, không có chiến and more Summaries System Analysis and Design in PDF only on Docsity!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

TIỂU LUẬN

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

NHÓM 1: QL26.

Chủ đề 1: Vai trò của thương mại đối với thúc đẩy

tăng trưởng và phát triển kinh tế. Liên hệ thực tiễn

tác động của thương mại trong một lĩnh vực sản

xuất ở VN.

(Công ty LT TP An Giang)

Giáo viên hướng dẫn: Thân Danh Phúc

Nhóm sinh viên thực hiện:

Lê Văn Thành 2621215299 QL26.

Phạm Huy Hạnh 2621215486 QL26.

MỤC LỤC

Lời mở đầu

Nội Dung

1 Khái niệm

2Vai trò của thương mại trong phát triển kinh tế- xã hội

của Việt Nam

3.liên hệ thực tiễn

Kết Luận

Nội dung

1Khái niệm

Thương mại trong tiếng Anh có nghĩa là Trade, vừa có ý nghĩa là kinh doanh, vừa có ý nghĩa là trao đổi hàng hóa dịch vụ. Ngoài ra, trong tiếng Anh, người ta còn dùng một thuật ngữ khác là Business hoặc Commerce để chỉ thương mại với nghĩa là buôn bán hàng hóa, kinh doanh hàng hóa hay là mậu dịch. Trong lĩnh vực kinh tế, thương mại có thể hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp nhưu sau:

  • Nghĩa rộng: Thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Thương mại được hiểu như là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
  • Nghĩa hẹp: Thương mại là quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa. Trong lĩnh vực pháp lý người ta không định nghĩa cụ thể về thương mại là gì , thay vào đó, khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra định nghĩa về hoạt động thương mại như sau: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Theo đó, hoạt động thương mại thương mại được lý giải là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi với các hoạt động cụ thể là mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

2. Vai trò của thương mại trong phát triển kinh

tế- xã hội của Việt Nam

Thứ nhất, thương mại thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, thương mại đã từng đóng vai trò khá quan trọng đó là xóa bỏ nền sản xuất nhỏ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy ra đời nền sản xuất hàng hóa (hàng hóa sản xuất ra để trao đổi). Trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, vai trò của thương mại lại được khẳng định như

một mắt xích không thể thiếu được trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Thương mại tác động tích cực thúc đẩy quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta, chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất, hướng sản xuất theo nền sản xuất hàng hóa lớn, tạo ra nguồn hàng lớn cung cấp cho nhu cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu. Thương mại là yếu tố trực tiếp thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển, cung ứng hàng hóa và dịch vụ thông suốt trong vùng các trọng điểm kinh tế của đất nước. Sự hoạt động của thương mại bên cạnh chịu sự chi phối của các quy luật nền kinh tế hàng hóa, còn thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, cung ứng tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng và mua các sản phẩm ở vùng kém phát triển, kinh tế khó khăn để thúc đẩy kinh tế hàng hóa ở các vùng này phát triển, đẩy lùi kinh tế tự nhiên rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, cân bằng lại các hoạt động kinh tế. Thứ hai, thương mại thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH- HĐH) đất nước Vai trò của thương mại dịch vụ được gắn kết trong sự phát triển ngành công nghiệp xây dựng, ngành nông lâm nghiệp và các ngành kinh tế khác của quốc gia, được đánh giá theo các mục tiêu từng năm, từng kỳ kế hoạch đề ra. Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm nguyên vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng… Thương mại cung ứng các tư liệu sản xuất cần thiết, tạo điều kiện cho sản xuất tiến hành một cách thuận lợi. Hàng hóa sản xuất ra của các ngành, các lĩnh vực rất cần đến mạng lưới thương mại để tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, thực hiện khâu trung gian để điều tiết cung cầu. Khi hàng hóa được tiêu thụ nhanh sẽ rút ngắn được chu kỳ tái sản xuất và tốc độ tái sản xuất. Vì vậy, thương mại mở con đường tiêu thụ sản phẩm cho ngành sản xuất, thúc đẩy công nghiệp phát triển. Trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp, mọi sản phẩm hàng hóa đều được Nhà nước phân chia theo một cách nhất định, thương mại chỉ thực hiện cung cấp dịch vụ, hàng hóa do Nhà nước định trước. Nền kinh tế có sức ì lớn, các thành phần kinh tế không được khuyến khích phát triển, quan hệ cung cầu vốn đã mất cân đối lại càng mất cân đối hơn. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động thương mại chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường đã góp phần kích thích sản xuất phát triển, cung ứng hàng hóa và dịch vụ cho nhân dân.

hóa trên thị trường, giúp sản xuất tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi. Thứ năm, thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại Quan hệ thương mại với các nước trên thế giới sẽ ngày càng được củng cố vì lợi ích từ hai phía, thương mại đóng vai trò trực tiếp mở rộng các hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu tại chỗ, thiết lập và mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nối liền sản xuất với tiêu dùng trong nước với các nước trên thế giới, góp phần tích lũy vốn, nhất là vốn ngoại tệ và đổi mới công nghệ. Ngoài ra, quan hệ thương mại góp phần hay đổi cách nhìn nhận của bạn bè quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam. Như vậy, thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế không chỉ phạm vi trong nước mà còn phạm vi quốc tế, làm cho thương mại địa phương thâm nhập được thị trường ngoài nước. Vai trò hoạt động thương mại trong nền kinh tế của địa phương với quan hệ kinh tế quốc tế là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam.

3.liên hệ thực tiễn

Biến động chính sách của một số nước sản xuất, xuất khẩu gạo khiến thị trường thương mại gạo toàn cầu đang diễn biến nhanh, có nhiều nhân tố khó đoán định. Ấn Độ công bố lệnh cấm xuất khẩu gạo (trừ gạo basmati) khiến nguồn cung gạo toàn cầu thiếu hụt, ảnh hưởng mạnh tới hơn 140 quốc gia; Nga tuyên bố sẽ không gia hạn thoả thuận mang tên Sáng kiến ngũ cốc Biển Đen cùng với tình trạng hạn hán đã tác động dây chuyền khiến nhiều nước tăng nhu cầu dự trữ gạo. Hiện giá xuất khẩu một số chủng loại gạo của Việt Nam hiện đã vượt mốc 600 USD/tấn, thiết lập mốc kỷ lục cao nhất trong 11 năm qua. Xuất khẩu chính ngạch - yếu tố quan trọng Thực tế hiện nay, sản xuất lúa gạo trong nước có quy mô còn nhỏ lẻ, phân tán dẫn đến có lúc khó kiểm soát được nguồn cung cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, tổ chức sản xuất nhỏ lẻ khiến chất

lượng gạo không đồng đều, thiếu sự liên kết theo chuỗi từ khâu sản xuất, thu gom, chế biến, phân phối, tiêu thụ. Đặc biệt, sự liên kết, phân công lao động và tổ chức sản xuất gạo theo lợi thế của vùng và địa phương, dẫn đến tính chuyên môn hóa thấp, dễ xảy ra ùn ứ cục bộ về nguồn cung và thị trường. Giá xuất khẩu một số chủng loại gạo của Việt Nam hiện đã vượt mốc 600 USD/tấn Trước thực tế trên, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên lựa chọn việc đảm bảo làm chủ quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững. Đó chính là bảo đảm chất lượng hạt gạo và thương hiệu sản phẩm để giữ vững an ninh lương thực trong mọi tình huống, giữ vững đơn hàng, giữ vững thị trường xuất khẩu. Trong các buổi phát biểu trên nghị trường, tại các hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhiều lần nhấn mạnh đến sự hợp tác giữa các Bộ, ngành với các DN, địa phương đảm bảo việc tổ chức sản xuất lúa gạo thông suốt qua các chuỗi giá trị bền vững. Cụ thể, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn trong phiên họp thứ 25 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 15/8, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề xuất, thời gian tới Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT sẽ tham mưu Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp để tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng của ngành. “Khẩn trương quy hoạch thành các vùng trồng, vùng nuôi, áp dụng khoa học công nghệ trong các khâu của quá trình sản xuất. Tăng cường tổ chức sản xuất, xuất khẩu theo chuỗi liên kết. Tổ chức hiệu quả sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn, tập trung; gắn sản xuất với với tín hiệu của thị trường; liên kết nông dân bằng mô hình hợp tác xã kiểu mới; các khâu sản xuất, thu gom, chế biến, phân phối, tiêu thụ được đặt trong một “chuỗi giá trị” với DN”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề xuất. Cũng tại hội nghị xuất khẩu gạo đầu tháng 8 vừa qua, Bộ Công Thương đề nghị Bộ NN&PTNT đẩy mạnh tái cơ cấu ngành lúa, gạo theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Làm tốt công tác định hướng quy hoạch vùng trồng, tổ chức sản xuất, cơ cấu giống, kỹ thuật canh tác, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, thu hoạch, bảo quản…, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện xuất

vùng đứng đầu với 28,1 chợ và 11,9 chợ. Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ thấp nhất với 6,6 chợ. Tuy loại hình siêu thị và trung tâm thương mại tại các vùng Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc đã phát triển, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp so với cả nước (siêu thị là 3 và 10%; trung tâm thương mại là 2,9 và 13,3%). Với những thành tựu đạt được trong phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và xu hướng gia tăng việc làm do tác động từ các chính sách của Đảng và Nhà nước ta và sự nỗ lực của từng địa phương, cho nên, mặc dù thu nhập của người dân chưa cao, song đã từng bước được cải thiện. Trong giai đoạn 2010 - 2018, thu nhập bình quân đầu người/tháng của dân cư nông thôn (giá hiện hành) tăng từ 1.070,5 nghìn đồng (năm 2010) lên 2.990 nghìn đồng năm

  1. Ở một số địa bàn, như Trung du và miền núi phía Bắc; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; Tây Nguyên, thu nhập bình quân đầu người/tháng gia tăng, khoảng cách giữa các vùng dần được thu hẹp, song tốc độ còn khá chậm. Nhìn chung, điều kiện sống của một bộ phận không nhỏ của người dân ở khu vực nông thôn, miền núi còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, nhất là dân cư vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đồ họa: Thanh Hải Thu nhập của phần lớn người dân sinh sống ở khu vực nông thôn, miền núi nước ta thấp hơn khá xa so với khu vực thành thị. So với mức thu nhập bình quân đầu người/tháng của cả nước, năm cao nhất vùng Trung du và miền núi phía Bắc đạt

63,4%; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đạt 77,8%; Tây Nguyên đạt 82,2%. Trên bình diện toàn cảnh thực trạng thị trường các khu vực, có thể thấy, thị trường nông thôn, miền núi nước ta vẫn là một thị trường chậm phát triển với sức mua bình quân đầu người thấp. Kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê vào tháng 8-2019 cho thấy, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam đạt mốc 3. USD/năm (tương đương 65 triệu đồng - 70 triệu đồng/người/năm). Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, thu nhập thực tế bình quân một người vùng dân tộc thiểu số và miền núi khoảng 1,1 triệu đến 1,2 triệu đồng/tháng, tương đương với 13 triệu đồng - 14 triệu đồng/năm. Như vậy, mức thu nhập của khu vực đồng bào dân tộc thiểu số hiện mới chỉ bằng 1/5 mức thu nhập chung cả nước. Số liệu thống kê cho thấy, ở vùng nông thôn và miền núi, mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người/tháng vẫn có xu hướng tăng, chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi tiêu (91,9% đến 93,4%). Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là các địa bàn có tỷ trọng chi tiêu cho đời sống cao nhất (tương ứng là 93,4% và 93%). Khoản chi tiêu khác chiếm tỷ trọng thấp (dao động từ 6,6% đến 8,1%). Quỹ mua nhỏ, mang tính phân tán, phản ánh thu nhập và trình độ mua sắm của cư dân chưa đạt đến mức đủ lớn để có thể làm thay đổi về chất của thị trường nông thôn, miền núi hiện nay. Khuynh hướng tự cấp, tự túc không những không được khắc phục mà ngược lại, càng được củng cố thêm, cộng với tư tưởng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp truyền thống đã ngự trị lâu dài, mang tính phổ biến trong mọi vùng nông thôn, miền núi vẫn sẽ là một trong những tác nhân lớn kìm hãm sự phát triển thương mại và thị trường.

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2018 Do vị trí địa lý của nước ta, lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp,... nên ở nhiều địa bàn tỷ suất hàng hóa nhỏ, thu nhập thấp, chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Sự thay đổi độ cao về địa hình lớn đã tạo cho các tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều tiểu vùng khí hậu, làm tăng tính đa dạng của các sản vật địa phương. Tuy nhiên, do địa bàn nhiều nơi bị chia cắt mạnh, với độ dốc thay đổi lớn, trong đó địa hình nghiêng và dốc chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên là yếu tố gây trở ngại lớn đến quá trình phát triển kinh tế hàng hóa của các tỉnh, vùng nông thôn, miền núi và biên giới trên nhiều phương diện khác nhau: Khó mở rộng quy mô sản xuất, nhất là sản xuất nông, lâm nghiệp, công nghiệp - chế biến; làm tăng chi phí vận chuyển hàng hóa; làm tăng lượng vốn đầu tư cũng như chi phí ở các khâu của quá trình sản xuất xã hội... Trên các dải núi cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới từ Bắc vào Nam, nhiều nơi sản xuất vẫn mang tính chất kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp. Tính liên kết trong và giữa các chủ thể kinh tế, thương nhân và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, đại bộ phận doanh nghiệp thương mại và hộ kinh doanh cá thể quy mô nhỏ bé trong điều kiện nguồn vốn rất hạn hẹp, hiệu quả kinh doanh thấp. Khả năng tích tụ và tập trung các nguồn lực của các doanh nhân nhìn chung chưa bảo đảm đủ sức để cạnh tranh và hợp tác. Phương thức kinh doanh thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ đội ngũ quản lý chưa bắt kịp yêu cầu phát triển thương mại và thị trường theo xu hướng hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Kết cấu hạ tầng nói chung và kết cấu hạ tầng thương mại nói riêng còn yếu, thiếu đồng bộ, mạng lưới thương mại bán lẻ (chợ, hộ kinh doanh cá thể, cửa hàng bán lẻ, siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, chuyên doanh...) tăng nhanh nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu và phát triển mạnh ở các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành thương mại (đặc biệt là mạng lưới chợ) do xây dựng từ lâu, đã xuống cấp, cần được nâng cấp. Tỷ lệ chợ bán kiên cố, chợ lán, tạm, chợ cóc, khá cao (trên 70%), cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều hạn chế, trong khi nhu cầu mua bán, trao đổi của người dân ngày một tăng. Loại hình cửa hàng tự chọn và siêu thị chỉ chiếm 0,42% tổng số lượng cơ sở bán lẻ. Hơn nữa, quy mô của các cửa hàng bán lẻ phổ biến là quy mô hộ gia đình, sử dụng ít lao động và thiếu tính chuyên nghiệp. Những đặc điểm trên đã có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến việc phát triển và làm thay đổi bộ mặt thương mại và thị trường cũng như công cuộc xóa đói, giảm nghèo đang được thực hiện. Kết quả là thị trường nông thôn, miền núi đang có khuynh hướng bị khu vực hóa với một số vùng hết sức khó khăn, có nơi thậm chí chưa có những tiền đề cần thiết cho kinh tế hàng hóa. Thị trường miền núi - vùng cao - biên giới - nơi tập trung sự yếu kém sơ khai của nền thương mại nhỏ đang trong giai đoạn quá độ đi lên sản xuất hàng hóa vẫn được xem là bộ phận kém phát triển nhất của thị trường cả nước. Để phát triển thương mại và thị trường vùng nông thôn, miền núi Thị trường là “phong vũ biểu” của đời sống kinh tế - xã hội, nơi phản ánh tập trung kết quả và hiệu quả của những chiến lược và chính sách phát triển một cách nhanh nhạy nhất. Là thị trường chiến lược trong hệ thống thị trường nội địa thống nhất của quốc gia với đa phần dân số là người các dân tộc thiểu số, phát triển thương mại và thị trường nông thôn, miền núi không chỉ là tác nhân kích thích sản xuất hàng hóa, nâng cao dân trí, góp phần tạo tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, mà còn là cơ sở, chỗ đứng vững bền để ổn định đời sống, sản xuất, xã hội, an ninh biên giới và hội nhập quốc tế thành công. Vì thế, cần nhanh chóng tổ chức lại lưu thông hàng hóa nhằm tạo ra những tiền đề bên trong cho sản xuất và phân công lao động trong nông, lâm nghiệp theo hướng mở rộng các ngành, nghề dịch

điểm sáng trên thị trường cả về tiêu thụ sản phẩm (nông sản và sản phẩm làng nghề), bán lẻ hàng tiêu dùng và vật tư nông nghiệp. Trong đó, tại các vùng sản xuất nông sản hàng hóa cần phát triển các khu vực bán lẻ tập trung, với nhiều loại hình đa dạng. Các khu vực này có thể tách rời, hoặc liền kề với khu vực xây dựng các chợ đầu mối thu mua, phát luồng bán buôn nông sản và vật tư nông nghiệp. Đối với những vùng sản xuất nông sản chưa phát triển, chủ yếu phát triển chợ vừa phục vụ tiêu thụ nông sản, vừa bán lẻ hàng tiêu dùng, do tiêu thụ nông sản ở khu vực này chủ yếu để phục vụ cho tiêu dùng của dân cư trong vùng. Ba là , các hoạt động kinh doanh, dịch vụ cần bám sát quá trình sản xuất hàng hóa ở các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, chế biến... theo mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm. Tại các khu thương mại dịch vụ trên địa bàn các huyện, phát triển các cơ sở thu mua, phân loại, sơ chế, đóng gói, thu gom hàng hóa từ các hộ sản xuất cung cấp cho các nhà máy chế biến hoặc các doanh nghiệp lớn. Bốn là , cơ cấu lại kinh tế vùng và liên vùng để xây dựng và triển khai thực hiện phát triển các chuỗi cung ứng như chuỗi cung ứng rau quả, thịt gia súc (vùng Tây Bắc); chuỗi cung ứng thủy sản (cá chép giòn Hải Dương, cá hồi Sa Pa...); chuỗi cung ứng thịt gà (vùng Trung du và miền núi phía Bắc); chuỗi cung ứng thịt lợn (vùng Bắc Trung Bộ, Nam Bộ); chuỗi cung ứng hải sản (vùng Nam Trung Bộ); chuỗi cung ứng hoa (tỉnh Lâm Đồng)... Năm là , phát huy khả năng và tính tích cực của các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng biên giới theo hướng sản xuất hàng hóa, chuyển dần mô hình kinh tế từ nông - lâm nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang mô hình công nghiệp - dịch vụ và du lịch - nông - lâm nghiệp. Sáu là , chú trọng và tạo điều kiện phát triển thị trường vùng biên giới trở thành thị trường trung chuyển hàng hóa phù hợp với các cam kết đã ký giữa Việt Nam và các quốc gia. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động kinh doanh, trao đổi hàng hóa giữa hai bên nhằm thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tăng cường khối lượng hàng hóa lưu chuyển xuất, nhập khẩu, quá cảnh qua địa bàn.

Bảy là , sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn theo hướng xã hội hóa. Theo đó, các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại ở nông thôn cần được hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư, như các dự án về nông nghiệp theo Nghị định số 61/2010/NĐ-CP, ngày 4-6-2010, của Chính phủ, về Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp mở rộng cơ sở kinh doanh trực thuộc ở địa bàn nông thôn hoặc sử dụng các hợp tác xã, hộ kinh doanh (ở mức độ nhất định) trên địa bàn nông thôn làm đại lý mua hàng nông sản và bán vật tư, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong đó, có tính đến khả năng mở rộng mạng lưới, địa bàn hoạt động và thời gian áp dụng chính sách phù hợp với thực tiễn. Cần có chính sách về đất đai, hạ tầng, trụ sở, thuế VAT đặc thù để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các hợp tác xã, đặc biệt là các hợp tác xã cung ứng vật tư, kỹ thuật phục vụ sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa cho các hộ nông dân là xã viên hợp tác xã. Tám là , các hộ kinh doanh cá thể, với số lượng đông đảo so với các loại hình kinh doanh khác cần trở thành đại lý mua hàng nông sản và đại lý bán vật tư sản xuất nông nghiệp cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, hợp tác xã,... nên được xem xét để có thể hưởng những ưu đãi về thuế, tín dụng và thông tin một cách phù hợp. Chín là , trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng và phát triển các cụm kinh tế - thương mại - dịch vụ gồm nhiều chủ thể kinh doanh, với các hình thức sở hữu đa dạng được xem là khâu quan trọng trong việc tổ chức lại thị trường nông thôn và miền núi. Vì vậy, tạo điều kiện cho tầng lớp doanh nhân kiểu mới - doanh nhân nông nghiệp cũng là lựa chọn để phát triển thị trường ở địa bàn này. Mười là , tiếp tục đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại, có chính sách hỗ trợ cụ thể để mở rộng độ bao phủ hàng hóa, tăng sự hiện diện của hàng Việt Nam trên khắp các địa bàn, đi đôi với việc đổi mới cách thức tuyên truyền, quảng bá về hàng Việt Nam và thực thi quyết liệt các hoạt động phòng, chống