
















Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều có cơ hội phát triển...... Với ý nghĩa đó, sau một thời gian tìm hiểu nhóm em đã chọn đề tài "Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức và việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát triển của bản thân" để có cái nhìn sâu và rộng hơn.
Typology: Summaries
1 / 24
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 năm 20 23
Điểm: ……………………………..
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát triển đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt. Trước tình hình đó, cũng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách, bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cho công cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh. Với ý nghĩa đó, sau một thời gian tìm hiểu nhóm em đã chọn đề tài " Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức và việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát triển của bản thân " để có cái nhìn sâu và rộng hơn.
2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vật chất. 2.1.1.1. Định nghĩa về vật chất Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa: Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có một loạt phát minh khoa học mang tính bước ngoặt ra đời như phát hiện ra tia X, tia rơn - gen, trường điện từ, học thuyết tiến hoá, định luật bảo toàn vật chất và vận động, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng... Những phát minh khoa học này làm cho quan niệm siêu hình, máy móc về vật chất vấp phải mâu thuẫn khi không thể giải thích được các hiện tượng cho phát minh khoa học mới. Lợi dung điều đó, chủ nghĩa duy tâm vật lý đi tới phủ định vật chất, cho rằng vật chất biến mất, tiêu tan. Trong bối cảnh đó, khái quát những thành tựu khoa học đương thời, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất. Nội dung định nghĩa: Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Phân tích nội dung của định nghĩa : Trong định nghĩa vật chất này, Lênin chỉ rõ "vật chất là một phạm trù triết học", nghĩa là vật chất được Lênin sử dụng với tư cách là phạm trù triết học chứ không phải với tư cách là phạm trù của các khoa học cụ thể khác. Đã làm phạm trù triết học thì nó mang tính khái quát, trừu tượng hoá cao, đồng thời thể hiện thế giới quan và phương pháp luận triết học. Hơn nữa, phạm trù triết học mang tính khái quát hoá rộng hơn so với phạm trù của các khoa học khác. Điều này có nghĩa vật chất được hiểu theo nghĩa triết học khác với phạm trù vật chất được dùng trong khoa học vật lý, hoá học, chính trị học... Trong định nghĩa của mình, Lênin cũng nói rằng vật chất "được dùng để chi thực tại khách quan", có nghĩa là vật chất có rất nhiều thuộc tính nhưng thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất, thuộc tính cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc vật chất và cái gì không thuộc vật chất chính là thực tại khách quan. Thực tại khách quan là sự tồn tại thực
Nội dung định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được tính trực quan siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời kế thừa được những tư tưởng duy vật biện chứng về vật chất của Mác - Ăngghen. Định nghĩa vật chất của Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất. Định nghĩa vật chất của Lênin là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện chứng trong lĩnh vực xã hội. Định nghĩa này là một khuôn mẫu về định nghĩa khoa học, mở ra một phương hướng mới cho định nghĩa trong logic biện chứng. 2.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về ý thức. 2.1.2.1. Định nghĩa về ý thức. Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phái triết học quan tâm nghiên cứu, nhưng tùy theo cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất khác nhau, là cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác nhau, hai đường lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và bám sát thực tiễn xã hội, triết học Mác - Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học - thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Óc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức không thể tách rời bộ óc. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường. Ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong sự liên hệ tác động qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.
2.1.2.2. Bản chất của ý thức Trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ biện chứng. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Bản tính phản ánh và sáng tạo. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là “hình ảnh” về thế giới đó, là tính thứ hai. Đây là căn cứ quan trọng nhất để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, phê phán chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình trong quan niệm về bản chất của ý thức. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một đối tượng phản ánh nhưng với các chủ thể phản ánh khác nhau có đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau... thì kết quả phản ánh đối tượng trong ý thức cũng rất khác nhau. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất biện chứng phức tạp của quá trình phản ánh: “Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đến bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi những đặc điểm về thể chất và tinh
các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Để thúc đẩy quá trình chuyển hóa này, con người cần sáng tạo đồng bộ nội dung, phương pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Bản tính xã hội. Ý thức được hình thành trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Trong quá trình đó con người nhận ra rằng cần có nhu cầu liên kết với nhau để trao đổi kinh nghiệm và các nhu cầu khác. Do đó mà khái niệm hoạt động xã hội ra đời. Ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, ý thức trước hết là tri thức của con người về xã hội, về thế giới khách quan đang diễn ra xung quanh, về mối liên hệ giữa người với người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội được hình thành cùng ý thức cá nhân, ý thức xã hội không thể tách rời ý thức cá nhân, ý thức cá nhân vừa có cái chung của giai cấp của dân tộc và các mặt khác của xã hội vừa có những nét độc đáo riêng do những điều kiện, hoàn cảnh riêng của cá nhân đó quy định. Như vậy, con người suy nghĩ và hành động không chỉ bằng bàn tay khối óc của mình mà còn bị chi phối bởi khối óc bàn tay của người khác, của xã hội của nhân loại nói chung. Tự tách ra khỏi môi trường xã hội con người không thể có ý thức, tình cảm người thực sự. Mỗi cá nhân phải tự nhận rõ vai trò của mình đối với bản thân và xã hội. Ta phải học làm người qua môi trường xã hội lành mạnh. Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. 2.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Khẳng định nguyên tắc tính đảng trong triết học, V.I. Lênin đã viết: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như triết học hai nghìn năm về trước. Những đảng phái đang đấu tranh với nhau, về thực chất, mặc dù thực chất
đó bị che giấu bằng những nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi đảng ngu xuẩn - là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm”^2. Nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát, kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học trên hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng. Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất. Vật chất quyết định ý thức. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người. Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Suy cho cùng, dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận
(^2) Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Triết học (dùng cho khối không chuyên ngành triết học – trình độ đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ) , NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015.
ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất. Thứ hai , sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân - lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. Thứ ba , vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực. Thứ tư , xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. 2.1.4. Ý nghĩa phương pháp luận. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan. Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, Đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan, còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình. 2.2. PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN CỦA Ý THỨC 2.1. Định nghĩa tính năng động chủ quan của ý thức 2.1.1 "Năng động chủ quan" là gì? Năng động chủ quan là một thuật ngữ trong triết học duy vật chủ quan, nó ám chỉ khả năng của ý thức để tác động và thích ứng với thế giới xung quanh. Năng động chủ quan bao gồm khả năng tác động của ý thức lên thế giới vật chất bên ngoài, cũng như khả năng thích ứng với các tín hiệu và sự kiện trong môi trường xung quanh. Ví dụ, khi chúng ta nhận thức và phản ứng với một tình huống khẩn cấp, chúng ta sẽ có phản ứng và hành động phù hợp để xử lý tình huống đó. Điều này cho thấy tính năng động chủ quan của ý thức trong việc tương tác và thích ứng với thế giới xung quanh.
Quyết định và đánh giá: Ý thức có khả năng quyết định và đánh giá các tình huống trong cuộc sống. Con người có thể sử dụng tính năng động chủ quan của ý thức để đưa ra các quyết định và đánh giá các tình huống một cách chính xác và có hiệu quả. Tính nhân đạo: Con người có khả năng cảm thông và chia sẻ với những người khác trong xã hội. Tính năng động chủ quan của ý thức có thể giúp con người hiểu và đồng cảm với cảm xúc của những người xung quanh, từ đó phát triển tính nhân đạo và cộng đồng. 2.2. Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát triển của bản thân Ý thức là khả năng của con người để nhận thức, suy nghĩ, cảm nhận bản thân và thế giới xung quanh. Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát triển của bản thân, có nghĩa là tận dụng tối đa khả năng này để phát triển và trưởng thành. Bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây, ý thức và tư tưởng có thể quyết định, làm cho con người hoạt động chính xác và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức và tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay. Để phát triển tính năng động chủ quan của ý thức, cần có sự tự tin, sáng tạo và khả năng tự quản lý. Bản thân phải có khả năng suy nghĩ độc lập, đưa ra những quyết định đúng đắn và đón nhận trách nhiệm với những hành động của mình. Phát huy tính năng động chủ quan là có vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá nó vào cộng đồng, để nó trở thành tri thức, niềm tin của cộng đồng, hướng dẫn cộng đồng hành động. Mặt khác phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược, v.v… Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức cũng đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực liên tục để hoàn thiện bản thân. Nó có thể được thể hiện qua việc học tập, rèn luyện kỹ năng và tham gia các hoạt động phát triển bản thân. Khi phát huy tính năng động chủ quan của ý thức, bản thân sẽ có thể hiểu rõ hơn về mục tiêu và giá trị cuộc sống của mình. Việc này sẽ giúp bản thân tự tin hơn trong việc đối mặt với thử thách và khó khăn trong cuộc sống và trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành động. Tiếp theo, bài báo cáo sẽ đưa ra ví dụ cụ thể cho hai lĩnh vực là công việc và học tập để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát triển của bản thân. Trong công việc: Trong bối cảnh của công việc, " tính năng động chủ quan của ý thức " có thể hiểu là khả năng của mỗi người trong việc thích nghi và tác động đến môi trường làm việc của họ theo cách mà họ tự tạo ra và thể hiện. Điều này bao gồm: Khả năng thích nghi : Trong một môi trường làm việc luôn luôn biến động, tính năng động chủ quan của ý thức cho phép người lao động thích nghi và thích ứng với những thay đổi một cách nhanh chóng và linh hoạt. Họ có thể sử dụng kinh nghiệm, kỹ năng và kiến thức của mình để giải quyết vấn đề và tạo ra các giải pháp sáng tạo trong môi trường làm việc khác nhau. Khả năng tác động: Một tính năng động chủ quan của ý thức cho phép người lao động tác động đến môi trường làm việc của họ một cách tích cực và sáng tạo. Họ có thể đưa ra các ý tưởng mới, cải tiến quy trình và phương pháp làm việc hiện có để nâng cao hiệu quả và tăng cường sự đóng góp của họ trong công việc.
Các tiêu chí đánh giá phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động tự học Nhận thức đúng đắn về mục tiêu, vai trò của tự học trong quá trình học tập, về vai trò của mình trong hoạt động nhận thức nói chung và hoạt động tự học nói riêng, từ đó để xác định trách nhiệm, động cơ trong tự học. Khi đưa ra phương pháp học tập, chúng ta phải xem xét rằng nó có phù hợp đặc điểm cá nhân hay lĩnh vực theo đuổi thì mới có thể đưa ra một phương pháp học tập phù hợp, đúng đắn. Không nên áp dụng rập khuôn một phương pháp học khi bạn tiếp cận kiến thức của các lĩnh vực khác nhau, việc đó sẽ không đem lại kết quả như mong muốn. Khi đưa ra mục tiêu phấn đấu, chúng ta phải đánh giá đúng khả năng của bản thân cũng như những điều kiện liên quan để đưa ra mục tiêu phù hợp. Tránh đưa ra mục tiêu quá thấp sẽ không kích thích được sự cố gắng, không cải thiện được sự hiểu biết. Cũng không nên đưa ra mục tiêu quá cao, mang tính bất khả thi sẽ dễ gây tâm lý chán nản trong quá trình thực hiện. Sự thể hiện năng động, chủ quan, tích cực trong mọi hoạt động tự học, biểu hiện ở chỗ tận dụng thời gian cho tự học, sự chủ động trong xây dựng kế hoạch và tiến hành nó một cách khoa học, có hiệu quả. Khi đưa ra kế hoạch học tập, phải xét đến điều kiện thực tế như: Thời gian, sức khỏe, tài chính…để đưa ra một kế hoạch phù hợp, có khả năng thực hiện. Chẳng hạn để có thể nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ sinh viên cần phải xét thời gian nào phù hợp có thể học, trường nào có mức học phí phù hợp với điều kiện tài chính của bản thân, phương tiện đi học có phù hợp với địa điểm học… Kế hoạch học tập phải đúng trọng tâm, các phần việc trong học tập phải được sắp xếp một cách hợp lý logic và phải hoàn thành đúng hạn kế hoạch đã được vạch sẵn, giúp quá trình tự học diễn ra trôi chảy hơn. Khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và khả năng vận dụng lý thuyết vào thực hành rèn luyện kỹ năng Đây là giai đoạn có tính chất quyết định và chiếm nhiều thời gian nhất. Khối lượng kiến thức và các kỹ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu tuỳ thuộc vào nội lực của bản thân, tùy thuộc vào khả năng tư duy độc lập và sáng tạo của bản thân.
Nó bao gồm các hoạt động: tiếp cận, lựa chọn và xử lý thông tin, vận dụng các thông tin để giải quyết các vấn đề có liên quan trong quá trình học như thảo luận, kiểm tra, thi, viết tiểu luận cuối khoá. Kết quả học tập, tiếp thu tri thức, rèn luyện thuần thục các động tác của người học là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá mức độ phát huy nhân tố chủ quan trong tự học Biểu hiện ở sự tăng lên liên tục của kết quả học tập trong quá trình học tập, môn sau, kỳ sau, giai đoạn sau cao hơn môn trước, kỳ trước, giai đoạn trước. Cải thiện chất lượng học tập cũng như tốc độ tiếp thu kiến thức mới trong tự học. Vai trò phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động tự học Phát huy nhân tố chủ quan trong quá trình tự học chính là bước đệm, là nền tảng để phát triển tư duy, trí tuệ và tài năng của con người Phát huy nhân tố chủ quan là động lực giúp bản thân nỗ lực cố gắng nắm vững kiến thức, tu dưỡng phẩm chất và rèn luyện kĩ năng cần thiết Có thể thấy, tính năng động chủ quan giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập. Tính năng động chủ quan là một nguồn lực, một sự thúc đẩy mạnh mẽ từ bên trong giúp cho người học phát triển tài năng, rèn luyện, hoàn thiện phẩm chất, nâng cao sự tiếp thu lĩnh hội tri thức ở người học. Từ đó tạo ra những tác động đến các lực lượng tham gia học tập và phát triển tri thức mới. Một số giải pháp phát huy tính năng động chủ quan trong tự học Chúng phải ra sức học tập, nghiên cứu tri thức khoa học để làm giàu thêm kho tàng tri thức của bản thân, không chỉ xem trọng tri thức chuyên ngành mà phải quan tâm cả những môn khoa học cơ bản, vì khoa học cơ bản là tiền đề, cơ sở để sinh viên tiếp xúc với tri thức chuyên ngành hiệu quả hơn. Vận dụng những kiến thức học tập ở trường lớp vào trong thực tiễn hành động. Truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, phổ biến tri thức khoa học cho mọi người cùng biết. Có tinh thần học hỏi cao, tham gia những cuộc thi và hội nhóm để mở rộngkhả năng hiểu biết của bản thân. Nhận thức được vai trò của mình của mình đối với sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong tương lai ta cần phải tích lũy tri thức nâng cao trình độ từ đó làm chủ được tri thức vận dụng sáng tạo vào quá trình học tập cũng như đời