Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

NGHỆ THUẬT GIỄU NHẠI TRONG TIỂU THUYẾT "BA NGÔI CỦA NGƯỜI" CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ, Thesis of Literature

NGHỆ THUẬT GIỄU NHẠI TRONG TIỂU THUYẾT "BA NGÔI CỦA NGƯỜI" CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ

Typology: Thesis

2015/2016

Uploaded on 08/13/2021

buidangnhat
buidangnhat 🇻🇳

4.8

(160)

210 documents

1 / 92

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
1
M ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1.1.Giu nhi với tư cách là một th pháp ngh thuật đặc hiệu đã xuất hin t lâu và
sm đưc các nhà nghiên cứu quan tâm nhưng tập trung nht trong công trình ca
các nhà Hình thc lun Nga như Bakhtin, Genette, Linda Hucheon.v.v. Theo hu
hết gii nghiên cu, dù nhìn t phương diện nào thì giu nhi cũng có hai đặc điểm
chính: Nhi giu, tc bắt chước châm biếm. M.Bakhtin đã xem giu nhi
“nói bằng ging ca k khác” nhưng đưa vào đó một khuynh hướng đối lp hn vi
khuynh hướng nghĩa của lời người đó. Giọng th hai, sau khi chuyn vào trong li
nói ca k khác thì xung đột thù địch vi ch nhân của nó và “buộc nó phi phc v
cho mục đích đi lp của mình”[11,tr187]. Bng lời n giễu nhi, các tác gi đã
làm đảo ln nhng cái gi nghiêm túc, lt bcái hào nhoáng để trơ ra cái giả
di, cái l bịch, cái đáng cười. Đó là cách giải thiêng trong văn học. Giu nhi va
lt t được mt phn bn cht của đối tượng, va dung hợp được cái bác hc ca
suy tư với cái sung sã của văn hóa bình dân. Và với li t nhại, văn chương chẳng
nhng s hoài nghi v các trt t đời sng còn s nghi ng chính nhng
kh năng, sứ mnh mà người ta thường đặt ra cho nó. Giu nhại chôn sâu cái cũ để
gieo ht mm cho cái mới đâm chồi, đó cũng là điều tt yếu ca lch s và văn học.
1.2.Tiu thuyết là th loi có sc dung cha ln, là th loi ch đạo của văn học.
th hin nhiều ưu thế trong vic chiếm lĩnh đời sống cũng như tâm hồn con người.
vậy, các nhà văn, các nhà lun, phê bình đã nhận ra rng “không thể khuôn
tiu thuyết vào mt s nguyên tc cng nhc, bt biến, chính phi m ra
nhng kh năng tim tàng vn có ca th loại này”. như vậy, văn học mi
th phản ánh được c chiu rng ln b sâu phc tp phong phú ca cuc sng
đương đại. Vào nhng thp niên cui thế k XX, mt thế h nhà văn đã n lc cách
tân tiu thuyết và có những đóng góp quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn
xuôi Vit Nam vốn đã được khởi động t những năm đầu thế k XX. Cùng vi Bo
Ninh, Phm Th Hoài, Nguyn Huy Thip, H Anh Thái, T Duy Anh, Nguyn Vit
Hà là người luôn trăn trở tìm kiếm nhng hình thc biểu đạt ngh thut mi mang
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20
pf21
pf22
pf23
pf24
pf25
pf26
pf27
pf28
pf29
pf2a
pf2b
pf2c
pf2d
pf2e
pf2f
pf30
pf31
pf32
pf33
pf34
pf35
pf36
pf37
pf38
pf39
pf3a
pf3b
pf3c
pf3d
pf3e
pf3f
pf40
pf41
pf42
pf43
pf44
pf45
pf46
pf47
pf48
pf49
pf4a
pf4b
pf4c
pf4d
pf4e
pf4f
pf50
pf51
pf52
pf53
pf54
pf55
pf56
pf57
pf58
pf59
pf5a
pf5b
pf5c

Partial preview of the text

Download NGHỆ THUẬT GIỄU NHẠI TRONG TIỂU THUYẾT "BA NGÔI CỦA NGƯỜI" CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ and more Thesis Literature in PDF only on Docsity!

MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1.1. Giễu nhại với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật đặc hiệu đã xuất hiện từ lâu và sớm được các nhà nghiên cứu quan tâm nhưng tập trung nhất trong công trình của các nhà Hình thức luận Nga như Bakhtin, Genette, Linda Hucheon.v.v. Theo hầu hết giới nghiên cứu, dù nhìn từ phương diện nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính: Nhạigiễu , tức bắt chướcchâm biếm. M.Bakhtin đã xem giễu nhại là “nói bằng giọng của kẻ khác” nhưng đưa vào đó một khuynh hướng đối lập hẳn với khuynh hướng nghĩa của lời người đó. Giọng thứ hai, sau khi chuyển vào trong lời nói của kẻ khác thì xung đột thù địch với chủ nhân của nó và “buộc nó phải phục vụ cho mục đích đối lập của mình”[11,tr187]. Bằng lời văn giễu nhại, các tác giả đã làm đảo lộn những cái gì gọi là nghiêm túc, lột bỏcái hào nhoáng để trơ ra cái giả dối, cái lố bịch, cái đáng cười. Đó là cách giải thiêng trong văn học. Giễu nhại vừa lột tả được một phần bản chất của đối tượng, vừa dung hợp được cái bác học của suy tư với cái suồng sã của văn hóa bình dân. Và với lối tự nhại, văn chương chẳng những là sự hoài nghi về các trật tự đời sống mà còn là sự nghi ngờ chính những khả năng, sứ mệnh mà người ta thường đặt ra cho nó. Giễu nhại chôn sâu cái cũ để gieo hạt mầm cho cái mới đâm chồi, đó cũng là điều tất yếu của lịch sử và văn học. 1.2. Tiểu thuyết là thể loại có sức dung chứa lớn, là thể loại chủ đạo của văn học. Nó thể hiện nhiều ưu thế trong việc chiếm lĩnh đời sống cũng như tâm hồn con người. Vì vậy, các nhà văn, các nhà lý luận, phê bình đã nhận ra rằng “không thể khuôn tiểu thuyết vào một số nguyên tắc cứng nhắc, bất biến, mà chính là phải mở ra những khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại này”. Có như vậy, văn học mới có thể phản ánh được cả chiều rộng lẫn bề sâu phức tạp và phong phú của cuộc sống đương đại. Vào những thập niên cuối thế kỉ XX, một thế hệ nhà văn đã nỗ lực cách tân tiểu thuyết và có những đóng góp quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam vốn đã được khởi động từ những năm đầu thế kỉ XX. Cùng với Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà là người luôn trăn trở tìm kiếm những hình thức biểu đạt nghệ thuật mới mang

đậm cảm quan hiện đại và hậu hiện đại. Với khát vọng theo đuổi nghệ thuật một cách say mê và với sức viết mạnh mẽ dồi dào, vốn liếng giàu có phong phú, trải qua hành trình sáng tạo gần hai mươi năm, Nguyễn Việt Hà đã tạo nên một sự nghiệp vững chải, tạo được dấu ấn riêng trong giới nghệ sĩ cũng như nhiều thế hệ độc giả. Anh xứng đáng là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi đương đại Việt Nam. 1.3. Các tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà từ Cơ hội của chúa , Khải huyền muộn đến Ba ngôi của người đã thu hút được sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu, phê bình và những người yêu văn chương. Nó đã tạo ra làn sóng phê bình tương đối sôi động, tạo nên những “hiện tượng đời sống” trong văn học Việt Nam. Đây là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, thể hiện ý thức đổi mới về cảm quan hiện thực và về cách viết, đó là lối ưa trào tiếu, giễu nhại, mở ra một hướng tiếp cận mới cho người đọc. Những năm gần đây, tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đã trở thành đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu khoa học,chúng được khám phám theo nhiều góc nhìn khác nhau như góc nhìn văn hóa, liên văn bản, tự sự học và thi pháp học.v.v. Đặc biệt với thủ pháp giễu nhại, nhà văn đã tạo nên một phong cách rất riêng, một lối viết rất lạ so với các nhà văn cùng thời. Không giống với giọng nhại của các nhà tiên phong buổi đầu đổi mới thường xót xa, bi đát hay cay độc mà nhại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà với cảm hứng cười cợt, châm biếm, hài hước nhằm phê phán, tố cáo đả kích về sự nhốn nháo, dung tục, pha tạp của đời sống thị dân nói chung và Hà Nội nói riêng. Ở đây, giễu nhại được nhà văn Nguyễn Việt Hà sử dụng không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà còn trở thành một ý niệm chi phối đến cả quá trình sáng tác, đặc biệt là trong việc tổ chức thế giới hình tượng nghệ thuật. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết Ba ngôi của người. Tiếp cận tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà từ phương diện nghệ thuật giễu nhại , theo người viết là một hướng đi có hiệu năng. Qua đó, giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới nghệ thuật của Nguyễn Việt Hà để từ đó làm cơ sở cho việc hiểu đúng về nhà văn cũng như những giá trị nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của ông. Hơn thế nữa, cũng từ đây thấy được vị trí và đóng góp của ông đối với tiến trình văn học hiện đại Việt Nam trên một phương diện cụ thể là nghệ thuật giễu nhại.

Thị Hoài, người kể chuyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất, xưng “tôi”. Ở vị thế của cái “tôi”, người kể chuyện của Phạm Thị Hoài là nhà dân chủ vĩ đại của ngôn từ. Phạm Thị Hoài trao gửi cho người kể chuyện một cách tài tình, tinh tế thứ ngôn ngữ bỗ bã, suồng sã. Nhiều nhà văn cũng gửi vào cửa miệng nhân vật lời nói suồng sã như thế. Nó giễu nhại tất cả các lời nói chính thống, quan phương, thứ lời nói có vẻ nghiêm túc, nhưng chứa đựng bên trong rất nhiều sự giả dối. Các nhà nghiên cứu, phê bình đã nói rất nhiều về hiện tượng giễu nhại trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hình tượng giễu nhại của các thể loại ngôn từ đã bị biến thành lời nói phong cách hóa (www.talawas.org). Trong bài viết Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới ,Mai Hải Oanh đề cập đến bút pháp trào lộng, giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Mai Hải Oanh cho rằng, sự xuất hiện của bút pháp trào lộng ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại xuất phát từ ba nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất, có ý nghĩa cân bằng sinh thái văn học sau một thời gian dài văn học ta quá nghiêm trang; thứ hai, là một nhu cầu giải tỏa áp lực của đời sống hiện đại; thứ ba, thể hiện tinh thần dân chủ hóa trong văn học. Sau đó, tác giả bài viết đã đề cập đến các tác phẩm đã sử dụng bút pháp này thành công như Thời xa vắng (Lê Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Cõi người rung chuông tận thếMười lẻ một đêm ( Hồ Anh Thái), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), T. mất tích (Thuận)… (http://vietvan.vn/vi/bvct/id265) Trong bài viết Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại , Thái Phan Vàng Anh đã đề cập đến giọng điệu giễu nhại, trào phúng trong tiểu thuyết giai đoạn này. Tác giả cho rằng: “tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ngày càng nhạt dần về sử thi, tiếp xúc thô bạo đến suồng sã về hiện thực, cái bi không còn dè dặt, tinh thần hài hước gia tăng. Cái nhìn phi thành kính, suồng sã, giễu nhại của chất tiểu thuyết đã quy định một giọng điệu riêng của tiểu thuyết đương đại. Thái Phan Vàng Anh chỉ ra giọng điệu hài hước trong tiểu thuyết đương đại có nhiều cấp độ khác nhau, có giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay, có giọng trào lộng, châm chích, có giọng tự trào, có giọng giễu nhại. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc nhờ người kể chuyện “biết đùa”. Theo tác giả giọng điệu trào phúng, hài

hước đã trở thành một giọng chủ, đem lại sắc thái mới cho văn học nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng” (http://vanhoanghean.com.vn). Với bài viết Hài hước, trào tiếu, sân khấu hóa trong tiểu thuyết gần đây, Nguyễn Văn Tùng đã đề cập hai tiểu thuyết được viết theo lối hài hước, trào tiếu và sân khấu hóa, đó là cuốn SBC là Săn bắt chuột ( Hồ Anh Thái) và 3339[Những mảnh hồn trần] (Đặng Thân). Tác giả đã chỉ ra:“yếu tố trào tiếu, hài hước thể hiện trong hai tác phẩm này từ bình diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện. Cụ thể SCB là Săn bắtchuột , đối tượng giễu nhại của Hồ Anh Thái là rất nhiều loại người trong xã hội: từ nhà thơ, nhà báo, đến đại gia, chân dài…Cả một thế giới nhân vật hiện lên với sự lố lăng kệch cỡm. Ở Những mảnh hồn trần , tính giễu nhại thể hiện đậm nét trong việc Đặng Thân tái hiện những vấn đề nóng của đời sống, khai thác ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau” (http://vannghetre.com.vn). *Những công trình, bài báo liên quan đến tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà Ở bài viết Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới tác giả Mai Hải Oanh đề cập đến việc cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là hiện tượng “ gấp bội điểm nhìn” ở đó một nhân vật được nhìn cùng lúc với nhiều điểm nhìn khác nhau và kĩ thuật lồng tiểu thuyết với kết cấu độc đáo (http://d.violet.vn). Cùng vấn đề này trong bài viết Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam đương đại- một số bình diện tiêu biểu của Nguyễn Thành, tác giả đã đề cập đến kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà theo lối truyện lồng truyện và có sự tổng hợp thể loại (http://vanhaiphong.com). Đỗ Ngọc Thạch trong tiểu luận Vài đặc điểm văn xuôi hiện đại lại xem tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là cái nhìn về một đời sống hỗn loạn, đổvỡ với sự thay đổi điểm nhìn và ngôi kể liên tục, tính phân mảnh của thể loại, biến tiểu thuyết thành trò chơi ngôn ngữ (http://bichkhe.org). Đại Lãi , trong bài Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp tác giả nhận xét rằng: “Nghịch dị và giễu nhại không phải cái mới hoàn toàn của văn chương hậu hiện đại. Vốn, nó đã xuất hiện từ lâu trong truyền thống. Tuy nhiên, để thể hiện “thái độ hậu hiện đại”, chúng thường xuyên được sử dụng, không chỉ như những thủ

mạng, các đoạn văn bình luận về phố, về tôn giáo, triết học và nghệ thuật”.Trong bài Dương Trung Quốc giật thọt khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà cũng chính Lam Thu đã cho rằng, Nguyễn Việt Hàđã đề cập đến những vấn đề về Hà Nội trên nhiều phương diện của cuộc sống:“Trong Ba ngôi của người , Nguyễn Việt Hà đã dựng lại chân dung Hà Nội đương đại. Đó là một đô thị với đủ thứ nhốn nháo, xấu xí, đủ gương mặt đại diện cho những tầng lớp thị dân”. Cùng viết vềthành phố nghìn năm văn hiến, nhưng đây là một cách viết độc đáo, mới mẻ của tác giả, cho chúng ta hình dung được bức tranh đời sống từ xưa đến nay, từ đó thấy được sự đau lòng của tác giả trước sự xô bồ, sự lai tạp và sự tha hóa đạo đức của thị dân Hà Nội(http://giaitri.vnexpress). Hoài Nam trong bài viết Hà Nội trong hai cái nhìn nhận xét về tiểu thuyết Ba ngôi của người :“Dựng lên một Hà Nội trai lơ tinh nghịch, khác hẳn một Hà Nội đăm chiêu khắc khổ như trong hình dung chung của nhiều người về Hà Nội thời ấy. Họ khắc tạc chân dung của một Hà Nội bấn loạn. Làm ăn buôn bán, sáng tạo nghệ thuật hay đơn giản như yêu đương, ở đâu cũng thấy bấn loạn!Hơn thế nữa, còn là một Hà Nội của chủ nghĩa tiêu dùng phì đại, một tinh thần bái vật giáo hàng hóa đến mức điên khùng. (Ở phương diện này, Ba ngôi của người có thể xem như một “tập đại thành” của các nhãn mác thời trang hàng hiệu, rượu ngoại, xe hơi, điện thoại cao cấp).Nhìn Hà Nội qua một tấm gương lồi, Nguyễn Việt Hà thường xuyên phát hiện được những hình ảnh, những chi tiết, những hiện tượng cực kỳ nghịch dị, và anh cũng dùng một hệ thống ngôn từ cực kỳ nghịch dị để diễn đạt những phát hiện ấy. (Nhạc chế, ca dao tân thời, những câu nói đầu miệng của vỉa hè Hà Nội, thậm chí cả những câu chửi rất tục, xuất hiện dày đặc trong Ba ngôi của người , tạo nên một đối trọng với lớp ngôn từ thành kính trang nghiêm khi nhà văn viết về những tiểu truyện Thiên Chúa giáo)”(http://antgct.cand.com.vn). Viết về những phương diện nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà trong bài Mộtgiọng điệu tiểu thuyết, Nguyễn Thụy Kha nhận định: “Nói đến sự thay đổi điểm nhìn, mạch độc thoại, đối thoại của các nhân vật, thời gian trong tiểu thuyết đi từ hiện đại đến quá khứ, từ dương thế đến âm ty, cấu trúc của tiểu thuyết vừa đóng vừa mở gây sự tò mò cho các độc giả và đặc biệt đó là một giọng điệu rất riêng của Nguyễn

Việt Hà. Ba ngôi của người lôi cuốn vì giọng điệu tưng tửng kiểu thị dân không bị cảm xúc chi phối, vì những con chữ nhặt từ đời thường lần đầu tiên xuất hiện làm mới mẻ giai điệu văn xuôi. Để lôi cuốn theo cách của mình, Nguyễn Việt Hà thường xuyên dùng thủ pháp đảo ngữ của thơ, làm tăng ấn tượng” (http://laodong.com.vn). Trúc Anh, trong bài Ký ức quẩn quanh của những kiếp người nhận xét rằng, nhà văn sẽ : “Dẫn dắt người đọc xuôi ngược vật vã với những tuyến thời gian, khi là thời Lê Trung Hưng, khi là thời Trần, lúc lại là chuyện của Ký Con, Nguyễn Thái Học thủ lĩnh của Việt Nam Quốc dân Đảng. Những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử được nhà văn tóm ra như bất chợt, rồi nhồi vào câu chuyện của mình, thông qua kiếp luân sinh của nhân vật trung niên, cùng hồi ức của Kun và Quang Anh. Nguyễn Việt Hà đã dựng nên một sân khấu đời, để trên đó các nhân vật của anh tha hồ mà diễn, tha hồ mà sống, tha hồ mà làm tình, tha hồ mà nhạt nhẽo, tha hồ mà dối gạt lừa lọc, tha hồ mà thương xót nhau”(http://anninhthudo.vn). Trong bài Văn chương ấy mà, Nhị Linh tiếp tục chỉ ra những điểm mới trong tác phẩm Ba ngôi của người: “Với một cách viết văn xuôi mông lung hời hợt trộn lẫn với vờ vịt nhưng sâu sắc, sử dụng ngôn ngữ phong phú, nhắc đến các nhà văn, các chi tiết lịch sử lên án đạo đức giả và những cái giả dối đó là “một kiểu giả dối Hà Nội rất mới, đã âm thầm kết tinh trong những nhộn nhạo năm tháng vừa qua, những láo nháo tình tiền và những thum thủm quán rượu quán bia ven bờ sông hay lấp nhấp phố phường”(http://nhilinh.blog.blogsport). Lạc Thành trong bài Người mang tên vợ Nguyễn Việt Hà, Nhà văn phải điêu toa đã cảm nhận một cách sâu sắc về các sáng tác của Nguyễn Việt Hà, người: “có lối dẫn dắt người đọc xuôi ngược với những tuyến thời gian có nhiều góc nhìn mới, tạo ra sức hút đặc biệt, nhất là trong tiểu thuyết mới Ba ngôi của người , Nguyễn Việt Hà được xem như một cây bút đô thị khá đặc sắc. Trong văn của anh, chất phố phường trào lộng cay đắng vẫn không giấu những trang trữ tình rất Hà Nội”(www.doisongphapluat.com). Tác giả Nam Phú trong bài Năm của tiểu thuyết Việt đã nhận định: “Cho dù Ba ngôi của người có thể gây thất vọng so với Cơ hội của ChúaKhải huyền muộn nhưng vẫn là Nguyễn Việt Hà ưa lối giễu nhại, trào tiếu những gì đang hiện

-Về lịch đại: So sánh các tác phẩm được Nguyễn Việt Hà sáng tác trong các giai đoạn khác nhau để làm rõ sự tiếp biến trong nghệ thuật giễu nhại của ông, cũng như so sánh tiểu thuyết Ba ngôi của người với các tiểu thuyết khác trong văn học Việt Nam ra đời trước đó để phát hiện những đặc sắc trong nghệ thuật giễu nhại của Nguyễn Việt Hà. Thống kê- phân loại Thống kê các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm từ đó có thêm cơ sở để đi đến nhận định, khái quát và đánh giá về vấn đề nghiên cứu. Cấu trúc- hệ thống Nghiên cứu nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố, các bình diện khác nhau như một chỉnh thể, một hệ thống. Liên ngành Luận văn còn sử dụng những kiến thức liên ngành như Thi pháp học, Văn hóa học, Phân tâm học, Mỹ học tiếp nhận, nhữngkiến thức lịch sử, để lý giải nghệ thuật giễu nhại trên một số cấp độ của tiểu thuyết.

5. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Ba ngôi của người trên các phương diện đề tài-chủ đề-tư tưởng, nhân vật- biểu tượng và trần thuật-ngôn ngữ- thể loại. Trên cơ sở đóthấy được nét đặc sắc và tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Việt Hà so với các nhà văn giai đoạn trước và sau đó, ghi nhận những đóng góp của nhà văn Nguyễn Việt Hà trong nền văn học Việt Nam sau đổi mới. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung luận văn được triển khai thành 3 chương sau: Chương 1:Đề tài, chủ đề trong tiểu thuyết Ba Ngôi của người từ cái nhìn giễu nhại của Nguyễn Việt Hà Chương 2 : Giễu nhại nhân vật và biểu tượng trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà

Chương 3 : Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người qua phương diện trần thuật, ngôn ngữ, thể loại

Trong văn học hôm nay, thuật ngữ giễu nhại được sử dụng trở lại để nói đến một cảm hứng xuất hiện trở lại của văn học Việt Nam sau một thời gian chìm lắng nay phục sinh trở lại. Như đã nói giễu nhại chủ yếu quan tâm đến việc vạch ra cái xấu, cái lố bịch, khiếm khuyết để giúp người ta nhận biết, sửa chữa và hoàn thiện. Cũng có khi giễu nhại như một thủ pháp gây cười, tạo ra sự hài hước cho tác phẩm. Quan niệm về chất giễu nhại trong văn học là rất phong phú. Nhưng chung qui lại, các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở điểm: Coi giễu nhại là một thủ pháp nghệ thuật dựa trên sự nhại lại một tư tưởng, quan điểm, cách viết cũ nhằm tạo nên tiếng cười giễu cợt với nhiều cấp độ khác nhau. Đó “là quan niệm về kiểu giễu nhại giữa tác phẩm này (bao gốm hình tượng, nhân vật, chi tiết, ngôn từ,..) với tác phẩm khác. Thực tế, còn có kiểu nhại khác, nhại ngay chính những thói hư tật xấu của con người ngoài đời. Các cấp độ nhại có thể được triển khai đến mức độ chi tiết. Thậm chí, ngay trong chính tác phẩm, nhại vẫn có thể được thực hiện giữa nhân vật này và nhân vật khác, hay giữa người kể chuyện với các nhân vật” [ 12 - tr82]. Giễu nhại là một thủ pháp tiêu biểu của văn học hậu hiện đại. Ở Việt Nam, thật khó để khẳng định một nền văn học hậu hiện đại đang hiện diện một cách rõ ràng. Nhưng chắc chắn cảm quan hậu hiện đại đã và đang thâm ngấm vào sáng tác của nhiều nhà văn. Đối với những sáng tác của các nhà văn hải ngoại, chất giễu nhại mang cảm quan hậu hiện đại thường nghiêng về cảm thức chính trị, những cái nhìn mang màu sắc giai cấp, dân tộc. Các nhà văn thường rơi vào những ám ảnh chính trị, ám ảnh của sự lưu vong, hủy diệt (giới nghiên cứu gọi là cảm quan thế giới Kafka). Cũng dựa trên sự cảm nhận cuộc sống với cảm quan hậu hiện đại, nhưng từ vị thế của những người đang trực tiếp sống, suy nghĩ và sáng tác ngay chính trên quê hương của mình, văn học trong nước cũng bộc lộ những nét khác biệt so với bộ phận văn học hải ngoại. Cũng có tiếng cười mang vị mặn đắng của nước mắt, chua xót, thậm chí phẫn nộ chửi bới nhưng đọng lại vẫn là lối tư duy duy cảm tồn tại bên cạch tư duy duy lý “ngoại nhập”. Ta có thể nghe thấy tiếng cười thấm đẫm cảm hứng trào lộng trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Khắc Trường… nhưng hấp dẫn và tập trung hơn cả là tiếng

cười trào tiếu, giễu nhại trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp. Sau đó, hàng loạt cây bút trẻ mà sáng tác và tên tuổi của họ luôn ẩn chứa cái nhìn mang tính giễu nhại: Hòa Vang, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh .v.v. Sự xuất hiện và phát triển của dòng văn học giễu nhại ở Việt Nam cho thấy sự tiếp cận và bắt kịp của nền văn học Việt Nam hòa vào dòng chảy của dòng văn học thế giới. Bởi giễu nhại là một trong những đặc trưng tiêu biểu của phong cách sáng tác hậu hiện đại. Nằm trong ảnh hưởng chung đó, Nguyễn Việt Hà đã cảm nhận được những đổ vỡ, mặt trái của xã hội thời kì đổi mới nhà văn đã dùng tiếng cười để giải thiêng những giá trị tồn tại lâu đời và hướng con người đến những điều tốt đẹp hơn.

tiêu cực, những vấn đề nảy sinh và những hệ lụy kèm theo.Đô thị hóa là quá trình tất yếu đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh; góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân và cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong văn học đương đại đã có nhiều tác giả thành công khi viết về đô thịvới nhữngcái nhìn riêngvề cuộc sống và con người ở đó như Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh Lam, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài.v.v. Trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn nhìn đời sống và con người đô thị bằng thái độ lạnh lùng, sắc lẹm; con người biến dạng với những giành giật, toan tính, vụ lợi ích kỉ. Đó còn là cuộc sống xô bồ, tạp nham trong truyện ngắn Không có vua , nhà văn đã khắc họa được một đô thị thiếu vắng tình người với sự hoài nghi về lối sống, tương lai của tầng lớp thị dân. Một tác giả khác cũng quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của con người nơi phố thị là Hồ Anh Thái trong tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột, ông viết về một thành phố lớn đang nhộn lên chiến dịch tiêu diệt chuột. Cuộc chiến giữa Chuột và Người thể hiện sự thô lỗ, xấu xa hiện hữu với giọng văn hài hước, sâu cay nhưng đầy lôi cuốn. Phạm Thị Hoài viết về đô thị mới tái xuất với tư cách là nơi chốn của các yếu tố thị trường và nhân cách, có khả năng phá vỡ các giá trị mặc định và đối kháng với nông thôn.Còn Nguyễn Việt Hà đã đưa vào trang viết của mình nhiều trăn trở về cuộc sống trong thời buổi kinh tế thị trường với cái nhìn về thế giới, con người trong sự phi lý, hỗn loạn và hoài nghi. Ông cũng là một trong những cây bút viết sắc sảo khi viết về đô thị và tầng lớp tri thức công chức. Nhà văn quan niệm: “Đô thị, tuổi trẻ, tri thức luôn là những vấn đề tôi quan tâm”.Nhà văn viết những cái gì nó rất gần mình, những thói tật trong đời sống. Bởi vậy, trong sáng tác của nhà văn, chất phố phường trào lộng cay đắng với một đời sống đô thị xô bồ, tạp nham. Đọc văn chương của Nguyễn Việt Hà người đọc có cảm giác nhà văn thích tọc mạch vào mọi chuyện, phơi bày hết những hiện thực của đời sống dưới cái nhìn ở nhiều chiều kích khác nhau. Trong tiểu thuyết Cơ hội của ChúaKhải Huyền muộn nhà văn viết về thời kì đổi mới với những biến động và thay đổi đến chóng

mặt. Trong tiểu thuyết Cơ hội của Chúa nhà văn mở ra một hiện thực đất nước những năm 89, 90 khi mà cơ chế thị trường đã làm đảo lộn cuộc sống cũng như nếp sống của con người. Bối cảnh chính của câu chuyện là mảnh đất Hà thành. Đây là nơi đầu tiên tiếp thu ngọn gió ngoại quốc vào Việt Nam, là nơi chứng kiến sự thay đổi đến chóng mặt: “Tháp Rùa ngơ ngác nhìn Hà Nội đang quen dần buôn lậu và tập tọng nghiện ngập. Đàn ông biết bật nắp Heineken và đàn bà cũng quen dần với vị Coca” [32, tr11]. Và trong Khải huyền muộn nhà văn cũng đã viết: “Người dân thì thắt lưng buộc bụng, hy sinh cả sự tăng trưởng của mình để làm giàu, làm sang cho những đám cưới mà hai ông thông gia kia lúc họp dự án chắc được ngồi bàn đầu” [33, tr180]. Trong Ba ngôi của người khi nói về cuộc sống ở đô thị tức là nhà văn nói về sức hấp dẫn của nóvà của các vùng đã được đô thị hóa là nguyên nhân chính lôi cuốn một số lượng khổng lồ cư dân nông thôn đi tìm miền đất hứa. Những thành phố lớn ngày càng hấp dẫn và lôi cuốn dân cư từ các đô thị nhỏ hơn làm cho đô thị ngày một thêm phức tạp, tác giả đã vẽ nên một bức tranh đại diện đầy đủ mọi khuôn mặt trong xã hội với cuộc sống xô bồ và hỗn tạp bởi lối sống đua đòi: “Hôm nọ có mấy người khách Sài Gòn nói giọng Bắc vào ăn tiết canh nhưng cứ đòi rau diếp cá. Thảo nào Hà Nội dạo này có cháo chửi phở quát” [34, tr24].“Có lẽ cái nhập nhoạng của vùng quê lưỡng lự đua đòi khao khát muốn thành đô thị đã làm ra toàn một bọn như thế” và “Những cặp thanh niên Tây du lịch ba lô lông lá có mặt khắp nẻo đường” [34, tr150]. Đô thị, theo tác giả đó còn là sự xâm thực tham lam, cuồng khấu, sự nuốt chửng không thương tiếc của những khối bê tông, sắt thépđối với những bãi bồi, những dòng sông, những triền đê mượt cỏ: “Xung quanh quán là hoang vu những hồ nhỏ những ao tù mà hôm nay đã nhan nhản thành những cao ốc ngô nghê những nhà nghỉ dâm đãng” [34,tr303]. “Nhưng tởm nhất là đám nhờn nhợt nồng nặc mùi tiền ở Hà Nội đang đầu tư vào mấy khu chế xuất” [34, tr54].Hay “Nghĩa là cũng giống bọn nông dân bây giờ, muốn thoát kiếp chăn trâu, cắm đầu vào đi làm ở các khu chế xuất rồi họ sẽ chết vì ngộ độc thực phẩm do tọng đầy những bữa ăn trưa thiu thối rẻ”.

Thấy dễ dãi thì buông thả làm ẩu rồi xót xa ân hận. Nếu được tha thứ thì lại làm tiếp. Phải chăng đó là cái thói vừa bạc bẽo vừa đạo đức của đô thị phố phường”. Bằng cái nhìn đầy trách nhiệm, Nguyễn Việt Hà không che giấu cho những cái xấu, những “ung nhọt” đang dần lớn lên trong lòng Hà Nội của hiện tại thông qua lời nói của nhân vật Kun:“Tôi yêu Hà Nội của tôi và thậm chí ghét những cái nhộn nhạo làm ra vẻ rộng lớn đại lộ tỉnh lẻ. Hà Nội càng ngày càng đông người ngoại tỉnh và không hiểu sao họ cho rằng đã là phố thì phải thật lớn”[34, tr33].Là một người con gốc Hà thành, Hà Nội với Nguyễn Việt Hà không chỉ là quê hương, đó còn là một mảnh đất để thương, để nhớ, để tiếc nuối và hoài niệmvà gìn giữ vẻ đẹp của Hà Nội mà bản thân mình đã sống qua một thời tuổi trẻ. Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà là thế giới hỗn mang của hiện thực đô thị với những phi lý, trái khuấy. Trước hiện thực ấy, Nguyễn Việt Hà góp nhặt những chuyện vặt vãnh về phố phường. Vừa kể, vừa cười. Tiếng cười hài hước, dí dỏm nhưng cũng không kém phần sâu sắc, chua cay. Bằng cách giễu nhại về tính đô thị trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn, cho chúng ta thấy được các ngõ ngách của đời sống, các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngoại giao… đang dần dần có sự thay đổi. Nhà văn còngiúp người đọc hình dung và suy nghĩ những vấn đề về thực trạng của xã hộivà những gì thực sự đang diễn ra trong xã hội thời kỳ Đổi Mới nói chung và đô thị Hà Nội nói riêng. 1.1.2. Hà Nội hiện đại xấu xí dị mọ trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngƣời Ở mỗi tác giả, với sự trải nghiệm và cảm nhận về một Hà Nội của xưa và nay, không phải ai cũng giống ai. Hà Nội trong cảm xúc, trong tâm trí của mỗi người mỗi khác. Đó có thể là niềm hân hoan trước sự phát triển, hội nhập vượt bậc của một Thủ Đô nghìn năm văn hiến, nhưng cũng có thể là sự đau buồn, tiếc nuối trước sự ra đi của một nền văn hóa, của những kỷ niệm bị bủa vây bởi một tầng lớp xã hội thị thành vô học, nhố nhăng. Hà Nội đẹp đẽ trong cảm quan lãng mạn của người xưa :“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Nói rằng “chẳng thơm” , nói rằng “không thanh lịch” chỉ là cách nói phủ định để khẳng định một nét đẹp của người Thủ đô Thăng Long-Hà Nội: nét thanh lịch…Người kinh đô Thăng Long có

lối sống rất tao nhã, thanh cao, cử chỉ rất văn minh, lịch sự. Lối sống đó đã trở thành bản sắc; dù có đi xuôi về ngược, vào Nam ra Bắc, bản sắc đó cũng không thay đổi. Dù ở đâu người ta vẫn có thể nhận ra người Hà Nội. Trong Hai đứa trẻ Thạch Lamviết về những cái dung dị đời thường, những kiếp người cực khổ nơi phố huyện nghèo. Đó là những nét văn hóa rất gần gũi, là những tiếng rao đêm của những gánh hàng rong, là cảnh chờ tàu của hai chị em An và Liên để đón nhận ánh sáng nơi phố huyện nghèo.v.v. Họ luôn hướng về những cái tốt đẹp đó là cuộc sống ở Hà Nội. Trong những trang văn của Thạch Lam, Hà Nội hiện ra cũng vô cùng thanh lịch và đẹp đẽ. Nét sang trọng, quý phái, tinh tế là ba phẩm chất được coi là những điểm nhấn mà nhà văn tôn vinh. Trong Cát bụi chân ai Tô Hoài đem lại những chứng từ sống động về địa dư, lịch sử, phong tục, tiếng nói của thủ đô Hà Nội. Còn trong Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh làm nổi bật về Hà Nội thời hậu chiến, Hà Nội gần gần mà xa, thỉnh thoảng vẫn được nhắc lại đâu đó trong một bài hát, một triển lãm ảnh, một đoạn phim .v.v. Cái nhìn về Hà Nội của Nguyễn Việt Hà tỏ ra gần gũi với Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Đó là cái nhìn về cuộc sống đa chiều đa diện với những phi lý diễn ra trong cuộc sống hiện đại, nó không còn đẹp đẽ và lãng mạn như trong tâm trí mỗi người. Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Số đỏ thể hiện được cái nhố nhăng của đời sống được nhà văn phác hoạ theo lối châm biếm. Nói như Lưu Trọng Lư, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện cái đồi bại của một hạng người một thời đại. Trong con mắt của ông, xã hội đương thời là hoàn cảnh lý tưởng cho những kẻ tầm thường nhưng lại đầy tham vọng. Cái phần luân thường đạo lý mà các thế hệ đi trước dày công vun đắp đã phai lạt hẳn, người nào người nấy xoay xoả kiếm sống và khao khát hưởng thụ. Cả kẻ vô học như Xuân lẫn bọn có học như Văn Minh đều sống bằng lừa bịp, ai giỏi lừa người đó thắng. Và cuộc sống của xã hội hiện đại đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách, làm hỏng con người. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, bức tranh mà Vũ Trọng Phụng vẽ nên đó là sự phản ánh trung thực xã hội đương thời đồng thời có tính cách khái quát một phần bản chất cuộc sống. Thời nào, hay nói cho đầy đủ hơn,