Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

đề cương lịch sử văn minh thế giới, Lecture notes of Law

đê cương lịch sử văn minh thế giới ussh

Typology: Lecture notes

2022/2023

Uploaded on 09/30/2023

tran-my-y
tran-my-y 🇻🇳

5

(1)

2 documents

1 / 23

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
ĐỀ CƯƠNG TỰ SOẠN
CÂU 1.1
VĂN HÓA
-Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử
-Ví dụ minh họa:
-Tín ngưỡng thờ tổ tiên của người dân Việt Nam:
-Người Việt quan niệm rằng người đã khuất luôn có mối liên hệ vô hình đối
với người đang sống, nghĩa họ vẫn đi lại giữa cõi âm cõi dương để
thăm nom và phù hộ con cháu. Đồng thời, tín ngưỡng này còn xuất phát từ ý
thức tôn trọng cội nguồn đức tính hiếu thảo của người Việt. Tại Việt
Nam, tín ngưỡng này được xem như một tôn giáo. Bàn thờ tổ tiên luôn
được đặt gian giữa nhà, các ngày cúng được tiến hành thường xuyên, đồ
cúng đầy đủ và đồ thờ là đồ gia bảo.
NỀN VĂN MINH
Nền văn minh trạng thái tiến bộ về văn hóa vật chất và tinh thần của một cộng
đồng dân tộc nhất định trong tiến trình lịch sử,
ví dụ: nền văn minh Ai Cập, nền vm ấn độ,.
Các loại nền văn minh
- Theo nền văn minh, Alvin Toffler đã phân kỳ lịch sử theo 3 đợt sóng văn minh.
Đó văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp văn minh tin học. - Theo
khu vực bao gồm có nền văn minh phương Đông và nền văn minh phương Tây: +
Phương Đông gồm các trung tâm văn minh nằm trên lưu vực các dòng sông lớn ở
châu Á, Đông Bắc châu Phi như sông Ấn, sông Hằng, sông Hoàng Hà, sông
Trường Giang, Thời cổ đại các trung tâm như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ,
Trung Quốc. Thời trung đại có các trung tâm như Trung Quốc, Ai Cập, Ả Rập. +
Phương Tây gồm các trung tâm văn minh nằm ở các đảo, bán đảo. Thời cổ đại
các trung tâm như Hy Lạp, Roma. Thời trung đại có trung tâm văn minh Tây Âu.
CÂU 1.2
Các phương pháp nghiên cứu :
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17

Partial preview of the text

Download đề cương lịch sử văn minh thế giới and more Lecture notes Law in PDF only on Docsity!

ĐỀ CƯƠNG TỰ SOẠN

CÂU 1.

VĂN HÓA

  • Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử
  • Ví dụ minh họa:
  • Tín ngưỡng thờ tổ tiên của người dân Việt Nam:
  • Người Việt quan niệm rằng người đã khuất luôn có mối liên hệ vô hình đối với người đang sống, nghĩa là họ vẫn đi lại giữa cõi âm và cõi dương để thăm nom và phù hộ con cháu. Đồng thời, tín ngưỡng này còn xuất phát từ ý thức tôn trọng cội nguồn và đức tính hiếu thảo của người Việt. Tại Việt Nam, tín ngưỡng này được xem như là một tôn giáo. Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt ở gian giữa nhà, các ngày cúng được tiến hành thường xuyên, đồ cúng đầy đủ và đồ thờ là đồ gia bảo. NỀN VĂN MINH Nền văn minh là trạng thái tiến bộ về văn hóa vật chất và tinh thần của một cộng đồng dân tộc nhất định trong tiến trình lịch sử, ví dụ: nền văn minh Ai Cập, nền vm ấn độ,. Các loại nền văn minh
  • Theo nền văn minh, Alvin Toffler đã phân kỳ lịch sử theo 3 đợt sóng văn minh. Đó là văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh tin học. - Theo khu vực bao gồm có nền văn minh phương Đông và nền văn minh phương Tây: + Phương Đông gồm các trung tâm văn minh nằm trên lưu vực các dòng sông lớn ở châu Á, Đông Bắc châu Phi như sông Ấn, sông Hằng, sông Hoàng Hà, sông Trường Giang, … Thời cổ đại có các trung tâm như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc. Thời trung đại có các trung tâm như Trung Quốc, Ai Cập, Ả Rập. + Phương Tây gồm các trung tâm văn minh nằm ở các đảo, bán đảo. Thời cổ đại có các trung tâm như Hy Lạp, Roma. Thời trung đại có trung tâm văn minh Tây Âu. CÂU 1.

Các phương pháp nghiên cứu :

Phương pháp lịch sử và phương pháp logic

  • Nội dung:
  • Phương pháp lịch sử : là phương pháp xem các hiện tượng các sự vật qua các giai đoạn cụ thể của nó (ra đời,phát triển,và tiêu vọng) với mọi tính chất cụ thể của nó.
  • Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong hình thức tổng quát nhằm vạch ra bản chất,quy luật,khuynh hướng chung trong sự vận động của cái khách quan được nhận thức
  • Ví dụ: phong trào công nhân , nông dân tri thức, quân đội => Hai phương pháp này có những điểm giống và khác nhau nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau trong 1 hệ thống thống nhất.

Phương pháp nghiên cứu đồng đại và lịch đại:

  • Phương pháp nghiên cứu đồng đại (còn gọi là phương pháp so sánh lịch sử theo không gian hoặc phương pháp so sánh lịch sử được tiến hành “theo đường ngang”) là phương pháp nghiên cứu, so sánh các sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra trong cùng 1 giai đoạn nhưng ở những không gian khác nhau, từ đó cho thấy sự giống, khác nhau, làm rõ mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng. Qua đó, người nghiên cứu nắm bắt được cái riêng, cái chung, thấy được tính đặc thù, phổ biến, hệ thống của sự kiện, hiện tượng, quá trình lịch sử cụ thể Vd: quân sự Mỹ mạnh hơn VN (vì Mỹ là bá chủ TG) VH: Oscar, Grammy đều thuộc về Mỹ  Mỹ có vị trí, tầm tác động cao hơn VN. Mỹ tác động với TG ở tầm TG, còn VN là khu vực.  Năm 802: CPC bước vào thời kì Angkor đưa CPC trở thành đế quốc ĐNA.  NĂM 802: VN trong thời kì bắc thuộc (VN ptr trì trệ hơn so vs CPC).
  • Phương pháp nghiên cứu lịch đại (còn gọi là phương pháp so sánh lịch sử theo thời gian hoặc phương pháp so sánh lịch sử được tiến hành “theo đường

tăng lữ. Dân thường (Vaisya) có cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng. Nô lệ (Soudra) là kẻ thấp hèn, có một số dân thường bị phá sản trở thành nô lệ, một số phải đi ăn xin. Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lí chán nản, tuyệt vọng. Kinh tế : Công cụ bằng kim loại đã làm thay đổi bản chất của sản xuất. Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng, làm xuất hiện tầng lớp mới, trong đó có thương nhân. Thương nhân là tầng lớp có tiềm lực về kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp nô lệ, đẳng cấp thấp hèn nhất. Tôn giáo( tiền đề tư tưởng) : Cuộc sống khổ cực càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp, không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lí ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giáo này. Trong bối cảnh đó vào thế kỷ VI Trước công nguyên ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại, khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỉ nhưng có 1 điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của đạo Bàlamôn. Quá trình truyền bá và phát triển : Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I Trước công nguyên, vào thời điểm rất hưng thịnh của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của con người với đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động nên sau khi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ. Từ thế kỷ V trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên là quá trình truyền bá và phát triển đạo Phật, từ khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết tập : Hội nghị kết tập lần 1 Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để tránh sự sai biệt, bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn vẹn. Được tổ chức tại Vương xá thuộc Magada vào thế kỷ V Trước công nguyên. Có 500 đại biểu tham dự, kéo dài trong 7 tháng. Kết thúc hội nghị hình thành bộ Kinh tạng và Luật tạng. Nội dung thống nhất được 2 phần:

Pháp: gồm những lời thuyết giáo của Phật được nhớ lại theo ký ức của các đệ tử lúc bấy giờ. Luật: là quy chế của hội Phật giáo do Đại hội thảo ra. Hội nghị kết hợp tập lần 2 Sau 100 năm có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật. Diễn ra vào khoảng thế kỷ IV Trước công nguyên với 700 tăng ni tham dự, diễn ra trong 8 tháng. Trong Đại hội này, một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới sửa lại luật, họ bị Đại hội trục xuất nên đã thành lập một phái riêng gọi là Đại chúng bộ, là mầm móng của phái Đại thừa sau này.

1. Hội nghị kết tập lần 3

Diễn ra vào khoảng thế kỉ III Trước công nguyên với 1000 tăng ni tham dự trong 9 tháng. Hội nghị thảo luận và hình thành phần Luận tạng. Với sự giúp đỡ của vua Asoka, nhiệm vụ chính là chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý của giáo hội, đồng thời đặt ra kinh kệ và các nghi thức. Asoka cho xây dựng nhiều chùa tháp, thành lập nhiều tăng đoàn, khuyến khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều vùng đất trên báo đảo Ấn Độ và một số quốc gia khác (Sri Lanka, Mianma,...) Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo, đã thống nhất được Tam Tạng Kinh. Tuy nhiên sau khi vương quốc Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu dần. Hội nghị kết tập lần 4 Diễn ra vào thế kỷ I SCN với sự giúp đỡ của vua Kanisca với 500 tăng ni tham dự ở Casmia. Thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách và phái Phật giáo này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ (gọi là phái Tiểu Thừa). + Phái Đại thừa (Bắc Tông - Mahayana): Định nghĩa: “con đường cứu vớt lớn”, “cỗ xe lớn”, được gọi là tôn giáo cải cách. Giáo lý Đại thừa có nhiều cái mới so với đạo Phật nguyên thủy. Phái này cho rằng không chỉ những người xuất gia tu hành mà cả những phật tử cũng được cứu vớt. o Chủ trương người theo đạo Phật Đại thừa không chỉ giải thoát, giác ngộ cho bản thân mà còn có thể giúp nhiều người cùng giải thoát, giác ngộ. Đại thừa chủ trương mỗi người có thể đến Niết Bàn chỉ bằng sự cố gắng của mình, đồng thời chủ trương giải thoát đông đảo cho nhiều người. Quan niệm Niết bàn như thiên đường, tức là vương quốc của các vị Phật, cũng là nơi Cực lạc. Đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.

Tuy nhiên, kết quả hay quả báo của nghiệp không mang tính cố định, bất biến, mà chịu sự chi phối, tác động, ảnh hưởng từ các yếu tố duyên hay khuynh hướng nỗ lực tạo tác của con người. Nói cách khác, con người hoàn toàn có khả năng tác động đến kết quả của nghiệp. Chẳng hạn như một người trước đây từng là kẻ vướng nhiều sai lầm, nhưng do nỗ lực làm các việc thiện và thanh lọc tâm ý, anh ta hoàn toàn có khả năng tránh được hậu quả của nghiệp. Nhân quả nghiệp báo không phải là một thực tế mà là một quá trình.

Cũng theo giáo lý nhà Phật, nhân quả - nghiệp báo của mỗi số phận, mỗi con người không chỉ do đời này, kiếp này tạo nên mà đôi khi là do duyên nợ từ tiền kiếp

2.2 QUÁ TRÌNH HINH THANH PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ THIÊN

CHÚA GIÁO

Được hình thành tại vùng đất Palestine (lúc bấy giờ nằm trong lãnh thổ của đế quốc La Mã), do Chúa Jesus là người sáng lập ra. Trải qua hơn 2 nghìn năm lịch sử hình thành và phát triển, có thể nói Thiên Chúa giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất của thế giới khi có đến gần 2 tỷ người theo đạo, chiếm 1/3 số người số người sống trên Trái Đất. Cơ sở lý luận của Thiên chúa giáo bắt nguồn từ đạo Do Thái và triết học Khắc kỷ đang thịnh hành thời bấy giờ. Ban đầu là một chi nhánh của Do thái giáo, năm 65 thì tách ra thành tôn giáo mới, đến nay có 3 môn phái chính:

  • Đạo Kito (Catholic)

  • Đạo Tin lành (Protestant)

  • Chính thống giáo (Orthodox)

 Hoàn cảnh ra đời: Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Thiên Chúa (đạo Kito) là con của Chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria và được sinh ra ở Bethlehem vào khoảng năm 5 hoặc 4 TCN. Đến năm 30 tuổi, Chúa Jesus vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh, có thể làm co người chết sống lại. Trong khi truyền đạo, Chúa Jesus khuyên mọi người phải nhẫn nhục chịu đựng mọi đau khổ ở đời, sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở thiên đường. Sự ra đời của Thiên Chúa giáo khởi nguyên từ năm 63 TCN, khi La Mã thôn tính vùng Palestine, nơi mà từ thế kỉ VI TCN cư dân đã theo một tôn giáo nhất thần gọi là đạo Do Thái.

Người La Mã áp dụng một chế độ cai trị hà khắc khiến nô lệ, dân nghèo và thợ thủ công bị áp bức hết sức nặng nề. Họ đã bao lần nôi dậy đấu tranh nhưng đều bị đàn áp đè bẹp, khiến họ mất niềm tin vào hạnh phúc, tự do trong cuộc sống hiện thực. Trong khi đó tư tưởng của phái triết học khắc kỉ với các nội dung như thần thống trị thế giới, sống nhẫn nhục chịu đựng là đức tính tốt đẹp, mọi người đều bình đẳng, đang được lưu hành ở La Mã. Chính giáo lí của đạo Do Thái, tư tưởng của phái khắc kỉ và đời sống cực khổ không có lối thóa của nhân dân bị áp bức là những yếu tó dẫn đến sự ra đời của đạo Thiên Chúa. Vì không tìm được lối thoát nên con người tìm đến sự ảo mộng trong tôn giáo như một lối thoát cho mình. Do vậy Thiên Chúa giáo trở thành tôn giáo của người bị áp bức bốc lột: nô lệ, nông dân, thợ thủ công.

2. Quá trình truyền bá và phát triển

Thiên Chúa giáo buổi đầu Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ của đạo Thiên Chúa bao gồm nô lệ, nô lệ được giải phóng, dân nghèo thành thị. Họ lập thành những công xã nhỏ. Đó không những là những đoàn thể của các giáo hữu mà còn là những tổ chức giúp đỡ lẫn nhau và làm việc từ thiện. Các công xã 9 đều có quỹ chung để tiêu dùng và tổ chức những bữa tiệc chung. Mọi thành viên của công xã đều bình đẳng. Quyền lãnh đạo các công xã Thiên Chúa giáo trong thời kỳ này thuộc về các nhà truyền giáo lưu động, các sứ đồ. Họ đều là đại biểu của quần chúng nghèo khổ. Trong quá trình phát triển, Thiên Chúa giáo đã phát triển qua hai giai đoạn.

Giai đoạn 1 (từ thế kỷ I đến thế kỷ IV Sau công nguyên): Đây là giai đoạn Kitô giáo bị đàn áp rất khốc liệt, chỉ có một bộ phận tín đồ ở Palestine tham gia. Sau cái chết của Chúa Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo lý của ngài truyền bá ra ngoài Palestine. Năm 62, thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở đây đã có nhiều tín đồ Kitô giáo. Ban đầu giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng Chúa Jesus cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng lớp giàu có, thống trị và đế quốc La Mã sẽ sớm bị diệt vong", tín đồ Kitô giáo sẽ được sống trong vương quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ nhận sự tồn tại của chế độ và nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc căm ghét Kito giáo, cho rằng tín đồ Kitô là lũ phiến loạn và tiến

Mã đã bị chia làm hai : giáo hội Thiên chúa (giáo hội ở phương Tây, giáo hội La Mã) và giáo hội Chính thống ( giáo hội ở phương Đông, giáo hội Hy Lạp). Liên hệ Việt Nam: Quá trình hình thành và phát triển đạo Thiên Chúa giáo ở nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Từ một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với Việt Nam, đến nay Thiên Chúa giáo là một trong những tôn giáo có số người tin theo lớn thứ hai (với hơn 7 triệu triệu tín đồ) trong các tôn giáo có mặt tại Việt Nam. Đồng thời khi đạo Thiên Chúa vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều yếu tố văn hóa phương Tây du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, phát triển thêm nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật mới, trong đó đặc biệt nhất phải kể đến sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Cho đến nay đạo Thiên Chúa đã có được một nền móng tương đối vững chắc nhờ từng bước hội nhập vào trong văn hoá Việt Nam theo đánh giá của các nhà khoa học về tôn giáo này.

Về ý nghĩa lịch sử , Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo quần chúng bị áp búc sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo, chống lại chính quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền Rôma và là một bộ phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito giáo ra đời là một sự kiện lịch sử rất lớn lao vì sau này nó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng của người Châu Âu. Kết luận: Thiên Chúa giáo được hình thành từ 3 thành tố chính: giáo lý Do Thái giáo, triết học Khắc Kỷ và đời sống khổ cực của người dân La Mã. Thiên Chúa giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa phương Tây. Trải qua hơn 20 thế kỷ, tuy có những giai đoạn thăng trầm, những biến thiên theo thời gian và thời cuộc, có lúc tưởng chừng như diệt vong, nhưng cuối cùng thì Thiên Chúa giáo đã chiếm một vị trí khá vững vàng trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù Thiên Chúa giáo có thể đang xuống dốc ở châu Âu và ổn định ở Mỹ, tôn giáo ấy vẫn là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất ở mọi nơi trên thế giới. Hầu hết sự phát triển này có vẻ không do sự truyền giáo từ những người Thiên Chúa giáo phương Tây mà do một phong trào có tính cơ sở.

CÂU 3 THÀNH TỰU KHOA HỌC TỰ NHIÊN CỦA AI CẬP CỔ ĐẠI

Cơ sở hình thành : Bầu trời Ai Cập quanh năm trời quang mây tạnh do vậy dễ quan sát. Mực nước lên xuống của sông Nile, có hai mùa nước dâng hạ. Nhu cầu về nông nghiệp, xây dựng các công trình kiến trúc, đo đạc ruộng đất, tính toán thuế khoá. Nhu cầu về tôn giáo, những người phục vụ cho tôn giáo thường quan sát bầu trời để đưa ra lễ, luật cúng tế.

3. Toán học : _Toán học Ai Cập ra đời từ rất sớm, bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và thực tế cuộc sống của người Ai Cập, phát triển khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực số học, đại số và hình học. Do nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, tính toán vật liệu xây dựng các công trình kiến trúc, đo đạc,… là những nguyên nhân thúc đẩy toán học ra đời.

  1. Thiên niên kỷ III trước Công nguyên xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về các con số.
  2. Thiên niên kỷ II trước Công nguyên: phát triển thành công hệ đếm, nhưng vẫn chưa sáng tạo ra số 0, cho nên khi đếm đến 10, họ đã lấy một đoạn dây thừng để ghi nhớ, đến 1000 thì vẽ cái cây
  3. Hệ số thập phân: cơ số 10, chưa có số 0, biết làm các phép cộng và trừ, còn nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng và trừ liên tiếp._

Đại số : giải phương trình bậc nhất, tìm ra cấp số cộng và cấp số nhân Hình học : Tính diện tích hình vuông, chữ nhật, hình thang, tam giác, tứ giác, diện tích hình cầu,... Tính được số π = 3,16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng Biết tính thể tích của hình lăng trụ, lập phương… Số học : Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị và chưa tìm ra con số 0. Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểu là công trừ liên tiếp Biết căn cứ khả năng nhân đôi của một số. Căn cứ khả năng lấy 2/3 của một số.

Thiên văn học :

Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh tác nông nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp. Với những dụng cụ hết sức thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, theo dõi sự lên xuống của mực nước sông Nile.

máu. Nhận thức được óc và tim là hai bộ phận quan trọng của cơ thể con người, tay nghề và sự tài giỏi của thầy thuốc được đánh giá bằng sự hiểu biết về trái tim.

Khoa học tự nhiên TRUNG QUỐCToán học

  • Người Trung Hoa đã biết sử dụng hệ thống thập tiến vị từ rất sớm.
  • Nhiều cuốn sách toán học như Chu bễ toán kinh, Cửu chương toán thuật cho thấy, họ đã biết đến phân số, mối quan hệ giữa ba cạnh của một tam giác vuông, phép toán khai căn, phương trình bậc một, khái niệm về số âm và số dương,…
  • Thời Nam – Bắc triều xuất hiện nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tính được số pi bằng 3,14159265 đây là con số chính xác nhất thế giới thời kỳ đó.

Thiên văn học

  • Từ thời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao với 800 vì sao, xác định được chu kỳ chuyển động của 120 vì sao => Từ đó, người Trung Hoa đã đặt ra lịch Can chi (âm lịch).
  • Ngay từ thời cổ đại, một số nhà thiên văn đã phát hiện ra vết đen trên mặt trời, chế tạo ra dụng cụ dự báo động đất,… Năm 1230, Quách Thủ Kính đời Nguyên đã đặt ra Thụ thời lịch xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với kết quả của các nhà thiên văn châu Âu cùng thời.

Y học

  • Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Đến thời Minh, cuốn Bản thảo cương mục của Lý Thời

Xuân ra đời, được Darwin đánh giá là bộ “Bách khoa về sinh vật” của người Trung Quốc thời đó.

  • Nhiều thầy thuốc giỏi được truyền tụng như Biển Thước, Hoa Đà, Lý Thời Trân…
  • Châm cứu là một thành tựu y học nổi bật và đặc sắc của người Trung Quốc.

HI LẠP : NHỮNG THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ KĨ THUẬT

Thiên văn và địa lý

Thales: Là người dự báo chính xác về hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực. Ông là người đã đặt nền móng cho khoa học và triết học, là người đã khai sinh ra nền thiên văn học Hy Lạp cổ đại và là người hình thành trường phái khoa học Milet. Nhưng ông sai lầm khi cho rằng trái đất nổi trên nước, vòm trời có hình bán cầu úp trên mặt đất.

Pitago : Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Về thiên văn học, ông có tiến bộ hơn Talét, ông nhận thức được quả đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định (Sau này Copecnic, nhà bác học người Ba lan đã phát triển thành thuyết "nhật tâm" nổi tiếng). Là người đầu tiên dùng danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ. Aristarque : Người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời, ông tính toán khá chính xác thể tích, khối lượng của mặt trời, quả đất, mặt trăng và khoảng cách của các thiên thể ấy. Ông khẳng định “Không phải mặt trời xoay quanh Trái đất mà chính Trái đất xoay quanh Mặt trời và mỗi ngày tự quay quanh nó một vòng”. Ératosthène : Ông là người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái đất là 23’27. Ông cũng là người đầu tiên tính toán khá chính xác chu vi của Trái đất bằng cách đo độ dài của đường xích đạo là 39 700 km, gần bằng con số ngày nay tính được. Hecataus : Sống cùng thời với Thales, là người đầu tiên vẽ được bản đồ thế giới, đây là bản đồ địa lý sớm nhất trong lịch sử địa lý học phương Tây. Euclid : Là người đứng đầu các nhà toán học của Alếchxăngđri, trên cơ sở tổng kết các thành tựu nghiên cứu của người đi trước, ông soạn thành sách Toán học sơ

Catropque hay hình học những tia phản chiếu Những dữ kiện Phép chia các hình Quang học Đặc biệt là bộ Elements - Những khái niệm cơ bản: Gồm 13 tập, trong đó ông đã sắp xếp một cách hợp lý, hoàn chỉnh, sáng tạo thêm, chứng minh chặt chẽ hơn tất cả 465 mệnh đề không chỉ về hình học mà cả lý thuyết số và đại số sơ cấp trên tinh thần của hình học, trong đó có tiên đề mang tên ông - Tiên đề Euclite. Hệ thống định đề của ông làm nền tảng xây dựng môn hình học phẳng hay còn gọi là hình học Euclide. Bộ sách Cơ bản gồm 13 cuốn vẫn được giữ đến ngày nay (phần lớn chương trình hình học ở phổ thông ngày nay sử dụng lại hầu như toàn bộ 6 cuốn trong bộ Cơ bản của ông). Trong lịch sử Toán học, đây là tác phẩm khoa học duy nhất đã tồn tại 2000 năm mà giá trị không hề giảm sút.

Archimede :

Về toán học : Tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và sớm nhất trong lịch sử phương Tây. Ông đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón, hình cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện tích toàn phần và thể tích hình cầu nội tiếp trong hình trụ. Một số tác phẩm tiêu biểu:

Về trạng thái cân bằng: Nghiên cứu về trọng tâm, hình bình hành, hình tam giác.

Cầu phuơng hình parabol: Cho lời giải về cơ học và cả lời giải toán học.

Về trạng thái cân bằng (tập 2): Nghiên cứu về trọng tâm của đới parabol.

Bàn về hình cầu và hình viên trụ (tập 1 & 2).

Bàn về cá hình xoắn.

Đo đường tròn.

Nghiên cứu về các vật nổi.

Arénaire: Về hệ đếm các số lớn.

Có nhiều truyền thuyết liên quan đến Archimede trong cuộc chiến của Siracure chống lại La Mã gương hội tụ, máy bắn đá và việc tìm tỉ lệ vàng trong vương miện

nhà vua...

Về vật lý : Ông là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng của nó vào việc giải phóng sức lao động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, chân vịt (dùng để hút nước). Ông phát minh ra nguyên lý đòn bẩy và nguyên lý về thủy lực, định luật về vật nổi. Ông được coi là người phát minh ra ròng rọc, đòn bẩy, máy bơm nước, máy bắn đá, bánh xe răng cưa, đường xoáy trôn ốc, nguyên lý hội tụ ánh sáng của gương cầu lồi,… Clauda Ptolémée : Trên cơ sở đúc kết các kiến thức về thiên văn học của Ai Cập, Babilon va Hy Lạp, ông soạn bộ sách Tổng hợp – kết cấu toán học (Composition mathématique).

Eurathosthène : Ông là người đầu tiên tính được độ dài của kinh tuyến trái đất bằng 39.000km (con số tính toán của khoa học ngày nay là 39.700km, giảng về phương pháp tính toán).

Y học

Y học Hy Lạp cổ đại đã có những thành tựu rất to lớn về lý luận và thực hành trong việc chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh. Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra những danh y và địa điểm hành nghề của họ được coi là thủy tổ của y khoa phương Tây sau này, đồng thời là 1 tiền đề quan trọng của sự phát triển nền tríêt học của Hy Lạp.

Danh y đầu tiên có thể kể đến là Etculatét, người đã đề xuất những phương pháp trị bệnh đơn giản nhưng hiệu nghiệm. Đặc biệt Hypôcrát người đầu tiên đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển của y học phương Tây, được coi là ông tổ của khoa học y dược. Bộ sách giáo khoa mười tập do ông để lại cho hậu thế là kho tàng vô giá về kiến thức y học đã được Littre – nhà ngôn ngữ học người Pháp, dịch xong năm

  1. Để tôn vinh những cống hiến của ông, ở phương Tây, các bác sỹ khi ra trường đều phải đọc “Lời thề Hypôcrát”.

Ngoài ra, nền y học Hy Lạp cổ đại còn có Hêracơlít – nổi tiếng trong việc phẫu thuật ở Hy Lạp. Đầu TK III Trước công nguyên nhà giải phẫu học Hêcrôpin đã chứng minh rằng não là khí quan tư duy, cảm giác do hệ thần kinh truyền đạt, xem mạch mạnh yếu nhanh chậm có thể biết được tình hình sức khỏe. Ông là người đầu tiên nêu lên vấn đề dùng thuốc mê trong phẫu thuật. Ý tưởng này của ông mãi đến

  • Tác phẩm chính: Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Nói chuyện với linh hồn của mình, Lời kể của Ipuxe, Sống sót sau vụ đắm thuyền,... THÀNH TỰU CỦA TRUNG QUỐC

Chữ viết

  • Từ thời nhà Thương, đã có chữ viết được viết trên mai rùa, xương thú được gọi là Giáp cốt văn. Chữ giáp cốt là loại chữ tượng hình. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đời sống, do nhu cầu cần ghi chép các khái niệm trừu tượng mà đã phát triển thêm các loại chữ tượng ý và tượng thanh. Qua quá trình biến đổi từ chữ Giáp cốt đã hình thành nên hệ thống chữ Chung đỉnh văn, Thạch cổ văn. Các loại chữ viết đầu tiên này còn được gọi là chữ Đại triện hay cổ văn. Do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không thống nhất
  • Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc đã đặt ra chính sách thống nhất chữ Trung Quốc đặt trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện. Đặc điểm: giảm bớt tính hình họa, hướng đến ký hiệu hóa văn tự, xóa bỏ một loạt chữ dị thể. Chữ Tiểu triện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển chữ Hán, bước từ chữ tượng hình sang văn tự biểu ý.
  • Cuối thời Tần Thủy Hoàng (221 – 206 TCN) đến thời Hán Tuyên Đế (73 – 49 SCN) đã xuất hiện chữ Lệ với đặc điểm: chữ viết theo nét rõ ràng, thoát ra khỏi tính hình tượng, nghiêng hẳn về ký hiệu hóa, tăng cường giản hóa nét bút.

=> Đây là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ Chân tức chữ Hán ngày nay và là ranh giới giữa cổ kim văn tự.

Văn học

Văn học Trung Quốc thời kì này phát triển rực rỡ và vô cùng phong phú với nhiều hình thức, thể loại, trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến Kinh Thi, thơ Đường, tiểu thuyết Minh – Thanh.

Kinh Thi:

- Xuất xứ:

Là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên ở Trung Quốc, được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Những bài thơ sưu tầm lại tập hợp thành tác phẩm gọi là Thi. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã biên soạn lại, chỉnh lý một lần nữa. Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, tập tác phẩm được gọi là Kinh Thi.

  • Nội dung: Gồm 305 bài chia làm ba phần: Phong, Nhã, Tụng ● Phong là dân ca của các nước hay còn gọi là Quốc phong. Đây là phần có giá tị tư tưởng và nghệ thuật cao nhất trong toàn bộ Kinh Thi. ● Nhã gồm 2 phần là Tiểu nhã và Đại nhã. ● Tụng bao gồm Chu tụng, Lỗ tụng và Thương tụng là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ, bói toán sáng tác dùng để hát khi cúng lễ. ⇨ Bằng lời thơ gọn gàng, thanh thoát, mộc mạc nhưng đầy hình tượng, các tác phẩm này đã nói lên sự áp bức bóc lột, nỗi thống khố của nhân dân và cảnh giàu sang của giai cấp thống trị trong xã hội Trung Quốc cổ đại.Thơ Đường: thời kỳ đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc
  • 3 thể: Từ, Cổ phong và Đường luật
  • Từ: một thể thơ đặc biệt ra đời giữa thời Đường, kết hợp chặt chẽ với âm nhạc
  • Cổ phong: một thể thơ tương đối tự do, không bị ràng buộc về niêm luật, gieo vần,…
  • Đường luật: lại bao gồm 3 dạng chính là bát cú, tuyệt cú và bài luật
  • Các nhà thơ Đường tiêu biểu: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,…

Tiểu thuyết Minh – Thanh: loại hình mới phát triển từ thời Minh – Thanh.

- Nội dung: Dựa vào các câu chuyện lưu truyền trong dân gian, các nhà văn đã viết thành các tiểu thuyết chương hồi phong phú cả về nội dung và hình thức.