Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

Bài tập tình huống Luật dân sự, Exercises of Civil Law

Các tình huống dân sự 2 về hợp đồng

Typology: Exercises

2020/2021

Uploaded on 01/20/2023

luoluo2312
luoluo2312 🇻🇳

5

(1)

1 document

1 / 67

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
SỔ TAY HỎI ĐÁP,
TÌNH HUỐNGMỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
Tình huống 1. A là một họa sỹ. A có ý định mở triển lãm trong thời gian
02 năm. B là một người khách đến xem tranh, rất thích bức tranh có tên “Êm”
và đề nghị được mua bức tranh này. A và B thống nhất giá bán bức tranh là 2
triệu đồng, A sẽ hỗ trợ cho người giao tranh đến tận nhà cho B. Sau khi B trả
đủ 2 triệu đồng cho A, ba ngày sau, A đã giao bức tranh cho B tại nhà B. Khi
mở bức tranh ra xem thì B thấy bức tranh bị nhòe mực. Hỏi ra mới biết A
trên đường vận chuyển gặp cơn mưa nhưng do quá nhiều tranh phải vận
chuyển nên C không dừng lại trú mưa. vậy B yêu cầu A bồi thường thiệt
hại. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Theo Khoản 4 Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2015 bức tranh là kết quả của hoạt
động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ của A, do đó, A quyền sở hữu
đối với bức tranh, đồng thời, A cũng có quyền tác giả đối với bức tranh.
Bức tranh là một tài sản hợp pháp, AB giao kết hợp đồng mua bán bức
tranh, theo Khoản 1 Điều 8, A có quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình
cho chủ thể khác B quyền xác lập quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp
thông qua hợp đồng. Hợp đồng xác lập giữa A và Bhợp đồng mua bán tài sản,
một trong những loại hợp đồng thông dụng và rất phổ biến trong đời sống xã hội.
Bức tranh đã bị thiệt hại là không còn giữ được toàn vẹn của tác phẩm. Nguyên
nhân là do hành vi của C. Theo Khoản 7 Điều 8, Bộ luật dân sự năm 2015 B có quyền
yêu cầu C phải bồi thường thiệt hại cho mình theo quy định của pháp luật.
Tình huống 2. Cchủ sở hữu chiếc điện thoại Iphone 7 vừa mới được
giới thiệu bán trên thị trường. B không đủ tiền mua nhưng rất thích chiếc điện
thoại này nên mượn của C chiếc điện thoại để xem trong một ngày. Khi đang
xem điện thoại thì bạn gái của B là E đến chơi. Do tính cách sĩ diện nên B nói
đây điện thoại của mình tặng cho E chiếc điện thoại này. Sau đó, B nói
với C là đã bị móc trộm điện thoại trên đườnghứa khi nào đủ tiền sẽ mua
đền C chiếc điện thoại khác. Trong một lần đi sinh nhật, C nhận thấy chiếc
điện thoại của mình đang do E dùng vì có một số đặc điểm của chiếc điện thoại
chỉ mình C biết. Hai bên cãi vã to tiếng. Trong cơn nóng giận, E vứt chiếc điện
thoại thẳng vào tường chiếc điện thoại bị vỡ, hỏng nặng, không sử dụng
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16
pf17
pf18
pf19
pf1a
pf1b
pf1c
pf1d
pf1e
pf1f
pf20
pf21
pf22
pf23
pf24
pf25
pf26
pf27
pf28
pf29
pf2a
pf2b
pf2c
pf2d
pf2e
pf2f
pf30
pf31
pf32
pf33
pf34
pf35
pf36
pf37
pf38
pf39
pf3a
pf3b
pf3c
pf3d
pf3e
pf3f
pf40
pf41
pf42
pf43

Partial preview of the text

Download Bài tập tình huống Luật dân sự and more Exercises Civil Law in PDF only on Docsity!

SỔ TAY HỎI ĐÁP,

TÌNH HUỐNGMỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ

Tình huống 1. A là một họa sỹ. A có ý định mở triển lãm trong thời gian 02 năm. B là một người khách đến xem tranh, rất thích bức tranh có tên “Êm” và đề nghị được mua bức tranh này. A và B thống nhất giá bán bức tranh là 2 triệu đồng, A sẽ hỗ trợ cho người giao tranh đến tận nhà cho B. Sau khi B trả đủ 2 triệu đồng cho A, ba ngày sau, A đã giao bức tranh cho B tại nhà B. Khi mở bức tranh ra xem thì B thấy bức tranh bị nhòe mực. Hỏi ra mới biết A trên đường vận chuyển gặp cơn mưa nhưng do có quá nhiều tranh phải vận chuyển nên C không dừng lại trú mưa. Vì vậy B yêu cầu A bồi thường thiệt hại. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này? Theo Khoản 4 Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2015 bức tranh là kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ của A, do đó, A có quyền sở hữu đối với bức tranh, đồng thời, A cũng có quyền tác giả đối với bức tranh. Bức tranh là một tài sản hợp pháp, A và B giao kết hợp đồng mua bán bức tranh, theo Khoản 1 Điều 8, A có quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho chủ thể khác và B có quyền xác lập quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp thông qua hợp đồng. Hợp đồng xác lập giữa A và B là hợp đồng mua bán tài sản, một trong những loại hợp đồng thông dụng và rất phổ biến trong đời sống xã hội. Bức tranh đã bị thiệt hại là không còn giữ được toàn vẹn của tác phẩm. Nguyên nhân là do hành vi của C. Theo Khoản 7 Điều 8, Bộ luật dân sự năm 2015 B có quyền yêu cầu C phải bồi thường thiệt hại cho mình theo quy định của pháp luật. Tình huống 2. C là chủ sở hữu chiếc điện thoại Iphone 7 vừa mới được giới thiệu bán trên thị trường. B không đủ tiền mua nhưng rất thích chiếc điện thoại này nên mượn của C chiếc điện thoại để xem trong một ngày. Khi đang xem điện thoại thì bạn gái của B là E đến chơi. Do tính cách sĩ diện nên B nói đây là điện thoại của mình và tặng cho E chiếc điện thoại này. Sau đó, B nói với C là đã bị móc trộm điện thoại trên đường và hứa khi nào đủ tiền sẽ mua đền C chiếc điện thoại khác. Trong một lần đi sinh nhật, C nhận thấy chiếc điện thoại của mình đang do E dùng vì có một số đặc điểm của chiếc điện thoại chỉ mình C biết. Hai bên cãi vã to tiếng. Trong cơn nóng giận, E vứt chiếc điện thoại thẳng vào tường và chiếc điện thoại bị vỡ, hỏng nặng, không sử dụng

được. C đã phát hiện ra sự thật và yêu cầu B phải mua đền cho mình chiếc Iphone 7 khác. Điều 11 BLDS năm 2015 quy định về các phương thức bảo vệ quyền dân sự. Theo đó, trong tình huống nêu trên, C đã bị xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản là chiếc điện thoại của mình. Do đó, C có quyền thực hiện các phương thức bảo vệ quyền dân sự. Trước hết, C có quyền tự bảo vệ quyền dân sự, yêu cầu E (người đang chiếm giữ chiếc điện thoại) trả lại điện thoại cho mình. C có quyền yêu cầu B bồi thường thiệt hại cho chiếc điện thoại mà B đã mượn, không trả lại và nay đã bị hỏng. Trường hợp B không thực hiện trách nhiệm của mình, C có quyền khởi kiện yêu cầu B bồi thường thiệt hại do đã xác lập hợp đồng mượn tài sản với mình nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản, đã có hành vi chuyển giao trái pháp luật tài sản cho chủ thể khác và làm hỏng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của C. Tình huống 3 : A 10 tuổi trở thành trẻ mồ côi sau một tai nạn bị mất cả cha và mẹ. M là cô ruột của A đã thực hiện các thủ tục để giám hộ cho A. M đồng thời quản lý căn nhà và các tài sản khác của bố mẹ A để lại. 3 năm sau, do A chơi với các bạn xấu, A về đòi cô giao các tài sản của bố mẹ để bán lấy tiền chơi điện tử. M không đồng ý và còn nghiêm khắc mắng A. A đã lén lút lấy một số tài sản và bán cho O. M biết chuyện yêu cầu O phải trả lại tài sản nhưng O cho rằng đây là tài sản của A, M chỉ là người giữ hộ nên M không có quyền gì đối với các tài sản này. A đã bán cho O thì các tài sản đương nhiên thuộc sở hữu của O. Điều 19 BLDS năm 2015 quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Theo đó, trong tình huống nêu trên A chưa có đủ năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình bằng hành vi của mình xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự, xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự. Do đó, việc A tự mình bán các tài sản của bố mẹ để lại cho O sẽ không là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản cho O. M có quyền yêu cầu O phải trả lại các tài sản này. Tình huống 4 : Sau một tai nạn giao thông, H bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe tâm thần của H không được đảm bảo, lúc nhớ lúc quên và xuất hiện một số hiện tượng nổi nóng cũng như một số hành vi không kiểm soát. Để tránh tình trạng H sẽ gây thiệt hại cho người khác hoặc sẽ mang tài sản của gia đình đi bán, K là vợ của H đã yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác định H trong tình trạng có khó khăn trong nhận thức,

Theo Điều 25 BLDS năm 2015 quy định về quyền nhân thân. Theo đó, căn cứ trên tình huống nêu trên, N là tác giả của các tác phẩm do N sáng tác do đó, N có quyền nhân thân là quyền tác giả đối với tác phẩm. Theo Luật Sở hữu trí tuệ, quyền công bố tác phẩm thuộc quyền tác giả là quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Những quyền khác thuộc quyền tác giả là quyền gắn liền với tác giả, không thể chuyển giao. Khi N bị mất năng lực hành vi dân sự, quyền tác giả của N không chấm dứt. Căn cứ theo Điều 25, trường hợp này, việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của N sẽ do người đại diện theo pháp luật của N đồng ý. Do đó, M không được phép xâm phạm quyền tác giả của N. Nếu M muốn sử dụng các tác phẩm của N phải xác lập các quan hệ dân sự và được sự đồng ý của vợ N, trường hợp N là đại diện theo pháp luật. Tình huống 6 : A là người Hà Nội đi tình nguyện mùa hè và gặp B là người dân tộc Hà Nhì. Thấy B xinh xắn và dễ thương, lại được học hành tử tế, A đem lòng yêu mến và xin phép gia đình được cưới B. Một năm sau, B sinh một bé trai kháu khỉnh. A đi đăng ký khai sinh cho con và dự định sẽ đăng ký cho con thuộc dân tộc Kinh nhưng B phản đối. B cho rằng theo tập quán tại quê hương của B thì con đầu lòng phải xác định dân tộc theo dân tộc của mẹ. A không đồng ý vì cho rằng như vậy sẽ ảnh hưởng đến tương lai của đứa trẻ. Hai vợ chồng không thể thống nhất trong việc xác định dân tộc của đứa trẻ trong giấy khai sinh là như thế nào. Điều 29 BLDS năm 2015 quy định về quyền xác định, xác định lại dân tộc. Theo đó, dân tộc của cá nhân được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ. Nếu hai người này không cùng dân tộc thì cần sự thỏa thuận của cha mẹ, hoặc theo tập quán nếu không thỏa thuận được. Tình huống nêu trên, A và B là hai người thuộc hai dân tộc khác nhau và không thể thống nhất về xác định dân tộc cho con của họ. Xét trên tập quán của hai dân tộc cũng không thể xác định được cho đứa trẻ. Do đó, theo Điều 29, dân tộc của đứa trẻ được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn. Nói cách khác, trường hợp này, dân tộc của đứa trẻ được xác định là theo dân tộc của mẹ. Tình huống 7 : A yêu và kết hôn với một người đàn ông Pháp. A sinh ra E là con gái đầu lòng. Do mâu thuẫn từ lâu với gia đình của A, B là hàng xóm đã sang chế giễu E không thể là người Việt Nam, là loại con lai, nên đi nước

ngoài mà sống. Con của B là M làm tại ủy ban phụ trách việc làm giấy khai sinh cho cá nhân. Do bị sức ép từ B, M kiên quyết yêu cầu A phải khai quốc tịch của E là quốc tịch Mỹ hoặc M sẽ không đồng ý ghi nhận quốc tịch của E là Việt Nam. Điều 31 BLDS năm 2015 quy định về quyền đối với quốc tịch. Theo đó, trong tình huống trên, E đương nhiên có quyền có quốc tịch. E được sinh ra tại Việt Nam, có mẹ là người mang quốc tịch Việt Nam. Do vậy, đương nhiên, E được quyền xác định quốc tịch của E là quốc tịch Việt Nam. Mọi hành vi cản trở việc ghi nhận quốc tịch của E trái pháp luật đều là sự vi phạm quyền đối với quốc tịch của E. Tình huống 8 : B là một nữ sinh đang theo học năm thứ hai tại Đại học X. Vốn có vẻ ngoài ưa nhìn, B thường xuyên tham gia các hoạt động ngoại khóa và chụp rất nhiều ảnh với bạn bè hoặc chụp các ảnh cá nhân tại các sự kiện, lễ hội. Những bức ảnh của B được rất nhiều các bạn trai cùng lớp hâm mộ và nhiều bạn đã tự ý sao chép ảnh của B để làm màn hình nền trên máy điện thoại hoặc máy tính cá nhân. D là một trong những bạn trai này. Một lần đến chơi nhà người họ hàng sắp mở Spa đang thiếu ảnh nền để treo quảng cáo tại Spa. D đã khoe ảnh của B và cho người họ hàng này in ảnh của B treo tại Spa để quảng cáo cho dịch vụ làm đẹp tại Spa. B biết được điều này đã yêu cầu tiệm Spa gỡ hết các ảnh của mình xuống vì chưa được sự cho phép của mình. Nếu thực sự muốn giữ lại các bức ảnh thì Spa phải có nghĩa vụ trả tiền cho B khi sử dụng các bức ảnh này. Tiệm Spa cho rằng bức ảnh này của B được tiệm Spa treo là làm nổi tên tuổi của B, đáng nhẽ B phải trả tiền quảng cáo cho tiệm Spa. Do đó, tiệm Spa từ chối trả bất kỳ khoản tiền gì cho B và cũng không chịu gỡ các bức ảnh này xuống. Điều 32 BLDS năm 2015 quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Theo đó, trong tình huống nêu trên, B hoàn toàn có quyền đối với các hình ảnh của mình. Đối với bất kỳ người nào sử dụng các bức ảnh của B phải được sự đồng ý của B. Việc tiệm Spa sử dụng hình ảnh của B để quảng cáo cho các dịch vụ làm đẹp là việc sử dụng vì mục đích thương mại, do đó, tiệm Spa phải trả thù lao cho B là người có hình ảnh. Trường hợp những người sử dụng hình ảnh của B và tiệm Spa không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của B dù đã được B yêu cầu thì B có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu những chủ thể này chấm dứt các hành vi xâm phạm. Nếu B chứng minh được vì các hành vi này mà B bị thiệt hại thì B còn

nơi ảnh hưởng đến công việc cũng như uy tín của C. C đã gặp người của nhà hàng Y đã đưa thông tin này và yêu cầu phải có hành vi xin lỗi và cải chính các thông tin thất thiệt đưa ra nhưng nhà hàng Y không chấp nhận. Điều 34 BLDS năm 2015 quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Theo đó, trong tình huống trên danh dự, uy tín của đầu bếp C đã bị xâm phạm nghiêm trọng bởi hành vi đưa tin thất thiệt. Theo Điều 34, các thông tin này ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của C được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng phải được gỡ bỏ. Trang báo mạng nào đăng thông tin này cần đăng cải chính công khai đối với các thông tin thất thiệt này. Ngoài ra, đầu bếp C còn có quyền yêu cầu người đã đưa ra thông tin thất thiệt làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của mình thông tin xin lỗi và bồi thường đối với những thiệt hại đã phải gánh chịu liên quan đến các thông tin thất thiệt đó. Tình huống11: Nguyễn Văn A, 35 tuổi bị TAND tỉnh Y kết án tử hình về hành vi cố ý giết người. Trước ngày thi hành án tử hình, A biết được B (bạn thân của A) đang bị suy thận cấp và cần có thận phù hợp để ghép và tiếp tục sự sống.A bày tỏ mong muốn trước khi chết được hiến thận cho bạn của mình và hiến xác cho y học. Hỏi: A có thể hiến thận cho B và hiến xác cho nền y học nước nhà được không? Tại sao? Theo quy định của Điều 35, BLDS năm 2015 thì quyền hiến bộ phận cơ thể và hiến xác là quyền nhân thân của A. Nhưng quyền này phải được thực hiện theo các điều kiện và trình tự, thủ tục mà Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định. Theo quy định tại Điều 5 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác.” Trong các quy định của văn bản này không có quy định cấm tử tù hiến mô, bộ phận cơ thể hay hiến xác sau khi thi hành án tử. Tuy nhiên, việc hiến xác và bộ phận cơ thể của A sau khi chết khó có thể thực hiện được trên thực tế bởi lẽ tử tù sẽ bị thi hành án bằng hình thức tiêm thuốc độc sẽ ảnh hưởng đến cơ thể, nội tạng của tử tù. Tình huống 12 : Em Nguyễn Thị Thu M (thị xã Châu Đốc, An Giang), sinh ngày 02/5/2009, được cha mẹ làm giấy khai sinh giới tính là nữ. Vì khi sinh ra thấy bộ phận sinh dục của em M giống của con gái nên khai sinh cho em là giới tính nữ. Bé M được gia đình nuôi nấng như một bé gái, mẹ M thường cho em đeo hoa tai, mặc váy, chơi búp bê… nhưng hình dáng và tính

cách bé lại bộc lộ nhiều thiên hướng về giới tính nam. Gia đình có nhiều nghi vấn và đưa em đi xét nghiệm, sau khi có kết quả xét nghiệm phân tích nhiễm sắc thể – Karyotype – em M được chẩn đoán chính xác mắc tật lỗ tiểu thấp thể bìu. Bé có dương vật cong nặng, có hai tinh hoàn, kèm theo chuyển vị dương vật bìu (dương vật nằm thấp hơn bìu).Bác sỹ tiến hành phẫu thuật lỗ tiểu thấp thể bìu. Hỏi: Anh/ Chị hãy xác định hậu quả pháp lý trong tình huống trên sau khi em M đã thực hiện xong quá trình điều trị em là nam hay nữ? Gia đình M phải làm gì để em được sống với giới tính đích thực của mình? Theo các tình tiết của tình huống đưa ra thì trường hợp em M phù hợp với các quy định của BLDS năm 2015 về trường hợp xác định lại giới tính. Theo quy định tại Điều 36, BLDS năm 2015, em M có quyền xác định lại giới tính của em khi giới tính của em chưa được định hình chính xác và cần có sự can thiệp của y học. Việc xác định lại giới tính của em được pháp luật công nhận khi thực hiện theo các thủ tục pháp luật quy định tại Nghị định số 88/2008/ NĐ – CP về xác định lại giới tính. Trong tình huống này, gia đình đã thực hiện các thủ tục và bệnh viện đã tiến hành phẫu thuật cho em M. V,ì vậy theo quy định của pháp luật, gia đình em có quyền yêu cầu bệnh viện nơi đã thực hiện can thiệp y tế để xác định lại giới tính cho em M cấp giấy chứng nhận y tế sau khi đã xác định lại giới tính cho em theo mẫu của Bộ trưởng Bộ Y tế. Sau đó, người đại diện hợp pháp của em sử dụng giấy chứng nhận y tế này để làm căn cứ để đăng ký hộ tịch cho M.Thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch cho người đã được xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Sau khi thực hiện xong thủ tục đăng ký hộ tịch em M sẽ được công nhận giới tính đích thực của mình là giới tính nam. Tình huống 13 : A sinh ra với đầy đủ các bộ phận cơ thể và hình dáng bên ngoài là nam, nhưng bên trong con người A lại luôn mong muốn mình có thể là con gái. A nói ý nguyện của mình với bố mẹ và thuyết phục bố mẹ đồng ý cho A sang Thái Lan để thực hiện các cuộc phẫu thuật để chuyển đổi giới tính nhưng bố mẹ A phản đối kịch liệt. Bố A thậm chí còn nhốt A, khóa trái của và bắt A viết cam kết không bao giờ được chuyển đổi giới tính. Mặc dù vậy, khao khát trở thành nữ trong A vẫn rất mãnh liệt. Ngày 1/12/ 2016, A bỏ trốn khỏi nhà và mua vé máy bay sang Thái Lan, sau rất nhiều lần phẫu thuật thành công, A trở về Việt Nam với diện mạo của một cô gái rất xinh đẹp, nhưng giấy tờ của A trước đây đều ghi họ tên của A là Trân Đức A, và giới tính nam, do đó khi qua trạm kiểm soát an ninh hàng không A bị giữ lại, việc

nhận Q làm con nuôi nếu anh thực hiện quyền ly hôn với chị B hoặc cố gắng thuyết phục chị B cùng nhận nuôi cháu Q. Tình huống 15 : Ngày 17/01/2017, A là sinh viên trường đại học Luật Hà Nội đến trung tâm điện máy Nguyễn Kim trên đường Nguyễn Chí Thanh mua 1 chiếc lò vi sóng trị giá 2 triệu đồng, A thanh toán tiền cho nhân viên bán hàng và yêu cầu nhân viên giao tài sản vào ngày 19/01/2017 nhưng không nói rõ địa điểm vận chuyển. Căn cứ vào các thông tin về địa chỉ A ghi trên phiếu mua hàng nhân viên vận chuyển của Trung Tâm Nguyễn Kim đã vận chuyển chiếc Lò vi sóng đến cổng trường đại học Luật Hà Nội. Khi đến nơi, nhân viên vận chuyển gọi cho A nhưng A không ra nhận vì A cho rằng pháp luật dân sự Việt Nam quy định trong trường hợp không thỏa thuận về địa điểm thực hiện nghĩa vụ thì bên bán phải vận chuyển tài sản đến nơi cư trú của A, trụ sở của trường Đại học Luật Hà Nội không phải nơi cư trú của A. Hỏi: Nhận định của A đúng hay sai? Tại sao?Giải quyết tình huống trên? Nhận định của A trong trường hợp này hoàn toàn chính xác. Địa chỉ trường Đại học Luật Hà Nội chỉ là nơi A đang theo học không phải là nơi A thường xuyên sinh sống, cũng không phải nơi A đang sinh sống theo quy định tại Điều 40, BLDS năm 2015. Giải quyết tình huống trên: Theo quy định tại khoản 2, Điều 277, BLDS năm 2015 thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ giao hàng của bên bán là tại nơi cư trú của A. Do đó, trung tâm điện máy Nguyên Kim phải xác định được nơi A thường xuyên sinh sống, tuy nhiên trong trường hợp này, A có nghĩa vụ phải cung cấp nơi cư trú của mình cho bên bán để bên bán giao tài sản. Tình huống 16 : A (16 tuổi) bố mẹ của A đã ly hôn, theo quyết định của Tòa án, A sống với mẹ tại xã X huyện Y tỉnh Nam Định. Nhưng A lại thích sống với bố và thường xuyên ở với bố trong một khoảng thời gian dài. Bố của A cư trú tại xã N huyện M tỉnh Ninh Bình. Ngày 06/01/ 2017, A đánh bạn và gây thương tích cho bạn học cùng lớp là C khiến C bị thương tật suy giảm 12 % sức khỏe, bố mẹ C muốn kiện A thì phải nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nơi A cư trú. Hỏi: Trong tình huống trên nơi cư trú của A là nơi nào? Tại sao? Theo quy định tại Điều 41 BLDS năm 2015, vì A 16 tuổi, A là người chưa thành niên nên nơi cư trú của A là nơi cư trú của cha, mẹ A. Nhưng trong tình huống này cha, mẹ của A đã ly hôn nên có nơi cư trú khác nhau, theo quyết định

của Tòa án, A ở với mẹ tại xã X huyện Y tỉnh Nam Định. Mặc dù A thường xuyên sống với bố tại xã N huyện M tỉnh Ninh Bình, nhưng không có thủ tục đăng ký thường trú tại nơi cư trú của bố, do đó nơi cư trú của A vẫn được xác định theo nơi cư trú của mẹ. Căn cứ quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, bố mẹ C có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện huyện Y tỉnh Nam Định. Tình huống 17: A bị Tòa án nhân dân huyện TD tỉnh Hưng Yên tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Anh A có vợ là B và có bố mẹ anh A là hai cụ C, D, hai cụ đã già và không có thu nhập ổn định, hàng tháng phải trông chờ vào số tiền trợ cấp ít ỏi. Tuy nhiên, do bệnh của anh A rất nặng, anh thường xuyên la hét và đập phá đồ đạc trong nhà, quá sức kiểm soát gia đình, mọi người đều nhất trí gửi anh A đến trại tâm thần huyện Y tỉnh Hưng Yên cách nhà 100 km để anh A được điều trị bởi các bác sỹ có kinh nghiệm và chuyên môn. Ngày 01/03/2017, vì bệnh tái phát anh A cắn lưỡi chết, các bác sỹ không biết phải gửi giấy báo tử về đâu vì bố mẹ anh A ở xã TS huyện M, còn chị B cư trú tại xã YN huyện TD nơi vợ chồng anh A trước đây ở; anh A chết ở bệnh viện có trụ sở tại xã MB tại huyện Y. Hỏi: Hãy xác định nơi cư trú của anh A trong tình huống trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thủ tục khai tử cho anh A? Nơi cư trú của anh A là nơi cư trú của chị B tại xã YN huyện TD tỉnh Hưng Yên. Vì: Anh A là người bị Toà án tuyên mất năng lực hành vi dân sự, vợ của anh A là chị B sẽ là người giám hộ đương nhiên của anh A theo quy định tại Khoản 1, Điều 53, BLDS năm 2015. Theo quy định tại Điều 42, BLDS năm 2015 nơi cư trú của anh A (người được giám hộ) là nơi cư trú của chị B (người giám hộ). Theo Điều 32 Luật hộ tịch 2014 thì cơ quan có thẩm quyền khai tử quy định như sau: “Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện việc đăng ký khai tử”. Như vậy, UBND xã YN là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện thủ tục khai tử cho anh. Tình huống 18 :A và B là vợ chồng, cả hai đều là bộ đội và đang đóng quân tại Thị xã Tam Điệp, tỉnh ninh Bình. Anh A quê ở Nghệ An, còn chị B quê ở Thanh Hóa. Khi chị B sinh con chị về Thanh Hóa để sinh, nhưng khi hai vợ chồng chị đi đăng ký khai sinh thì cán bộ hộ tịch từ chối đăng ký khai sinh cho cháu bé với lý do Chị B và anh A đều đã cắt hộ khẩu không cư trú tại Thanh Hóa hay Nghệ An.Và hướng dẫn anh chị đến nơi cư trú của cha hoặc

Tình huống 20 : Câu lạc bộ tình nguyện do A khởi xướng mang tên TÌNH THƯƠNG đã thành lập được 06 năm và hoạt động ổn định. Hàng năm, câu lạc bộ của A vẫn nhận được sự tài trợ, đóng góp của ba công ty cổ phần sản xuất bánh kẹo trên địa bàn A cư trú, số tiền và hiện vật ước tính lên tới 20 triệu/ tháng. Trong một chuyến đi tình nguyện tại tỉnh Hà Giang, câu lạc bộ tình nguyện của A phát hiện hoàn cảnh đặc biệt của em B cha mất sớm, mẹ bỏ đi; ông bà nội ngoại đều đã già yếu và hầu như không có thu nhập đảm bảo cho cuộc sống. Các bạn trẻ trong câu lạc bộ đều rất thương B và muốn tìm cho em một người giám hộ, tuy nhiên cuộc sống của những người dân nơi cư trú của em B rất khó khăn vì vậy không ai tự nguyện là người giám hộ cho em. Cuối cùng, các thành viên của Câu lạc bộ quyết định sẽ là người giám hộ cử cho em B. Hỏi: ý định của các thành viên câu lạc bộ TÌNH THƯƠNG có thực hiện được không? Tại sao? Trong tình huống này câu lạc bộ TÌNH THƯƠNG không thể trở thành người giám hộ cử cho em B được vì câu lạc bộ này không có tư cách pháp nhân, chỉ là tổ chức được thành lập với mục đích hoạt động thiện nguyện, nguồn tài chính hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào sự đóng góp của 3 công ty nhưng cũng không có cơ sở để xác định sự tài trợ đó là kéo dài và bền vững. Hơn nữa, ngay cả khi có tư cách pháp nhân thì điều kiện pháp nhân làm người giám hộ vẫn phải tuân thủ theo các quy định:

  • Pháp nhân đó phải có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ.
  • Pháp nhân đó phải có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Tình huống 2 1: Gia đình Nguyễn Văn A (sinh năm 1996) và Nguyễn Thị B (sinh năm 2004) bao gồm 4 người: bố, mẹ và hai anh em A, B. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, A đi làm công nhân ở nhà máy da giày cách nhà 20km Năm 2015, bố mẹ của A và B đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhà A và B ở gần ông bà nội nên sau cái chết của bố mẹ, hai anh em về ở với ông bà để tiện cho việc đi học của B khi A đi làm xa. Hỏi Nguyễn Thị B mới 12 tuổi có cần người giám hộ không và ai sẽ là người giám hộ cho B? Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 BLDS năm 2015 thì: “ Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Trong tình huống này, B là người chưa thành niên (11 tuổi) khi bố mẹ B chết, vì vậy đòi hỏi phải có người giám hộ cho B ( theo Điểm a Khoản 1 Điều 47 BLDS năm 2015).

Dựa trên tình huống trên thì: B có một người anh ruột là Nguyễn Văn A đã 19 tuổi và hiện đang đi làm công nhân ở nhà máy da giày. Do đó đáp ứng được các điều kiện của cá nhân làm người giám hộ theo quy định tại Điều 49 BLDS năm

  1. Vì vậy A sẽ là người giám hộ đương nhiên cho Nguyễn Thị B theo quy định tại Khoản 1 Điều 52 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, nếu A không đủ điều kiện làm người giám hộ cho B thì theo Khoản 2 Điều 52 BLDS năm 2015 thì ông nội, bà nội là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc cả hai làm người giám hộ cho B theo quy định tại Khoản 2 Điều 52 BLDS năm 2015. Tình huống 2 2 : Năm 1995, Nguyễn Văn A và Lê Thị B kết hôn với nhau, họ có hai người con là Nguyễn Thị C (sinh 1996) và Nguyễn Văn D ( sinh 2000). Đến năm 2015, do bị bệnh nặng, B dần dần không nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Đến năm 2016, theo yêu cầu của chồng là Nguyễn Văn A thì B được tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự. Hiện bố mẹ B rất muốn đón con gái về nhà mình cho tiện việc chăm sóc con vì A thường xuyên đánh đập B. Vậy bố mẹ B có là người giám hộ cho B được hay không? Dựa trên tình huống trên thì B là người mất năng lực hành vi dân sự, do đó B cần có người giám hộ cho mình theo quy định tại Điều 53 BLDS năm 2015. Vì B không lựa chọn người giám hộ cho mình khi còn ở tình trạng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo Khoản 2 Điều 48 BLDS năm 2015 nên người giám hộ đương nhiên cho B trong tình huống này là chồng B là anh A. Tuy nhiên, anh A thường xuyên đánh đập vợ nên không đáp ứng được các điều kiện của cá nhân làm người giám hộ theo quy định tại Điều 49 BLDS năm 2015. Vì vậy, A không được thừa nhận là người giám hộ đương nhiên cho B. Mặc dù bố mẹ B muốn đón con gái về chăm sóc và làm người giám hộ đương nhiên cho con nhưng vì con của B là Nguyễn Thị C đã đủ tuổi thành niên. Nếu C có đủ điều kiện làm người giám hộ cho mẹ mình là chị B thì C sẽ là người giám hộ cho B (theo Khoản 2 Điều 53 BLDS năm 2015). Trong trường hợp C không đủ điều kiện là người giám hộ thì bố, mẹ B là người giám hộ cho B theo quy định tại Khoản 3 Điều 53 BLDS năm 2015. Tình huống 23. Nguyễn Văn A là chủ một nhà hàng hải sản rất nổi tiếng ở phường X thuộc thành phố Y. Nhờ chịu khó học hỏi và chăm chỉ mà A cùng với vợ là chị B đã gây dựng thêm được hệ thống nhà hàng ăn uống ở phường X. Tuy nhiên vợ chồng A, B lại khó khăn trong việc sinh con nên sau 10 năm kết hôn, họ quyết định nhận cháu Nguyễn Văn C (sinh năm 2001 làm con nuôi. Đến năm 2015, trong một lần tai nạn giao thông, A bị rơi vào hoàn cảnh không

Thủ tục thay đổi người giám hộ được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Khi thay người giám hộ thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày C là người giám hộ mới, B đã thực hiên việc giám hộ phải chuyển giao giám hộ cho C là người thay thế mình.Việc chuyển giao giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do chuyển giao và tình trạng tài sản, vấn đề khác có liên quan của người được giám hộ tại thời điểm chuyển giao. Cơ quan cử, chỉ định người giám hộ lập biên bản, ghi rõ tình trạng tài sản, vấn đề khác có liên quan của ngườ dược giám hộ,quyền , nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực hiện việc giám hộ để chuyển giao cho người giám hộ mới với sự chứng kiến của người giám sát việc giám hộ. Tình huống 2 5: Cháu Nguyễn Thị A (sinh năm 2006) mồ côi mẹ từ khi 2 tuổi, sống với bố là anh Nguyễn Văn B (sinh năm 1975). Năm 2010, sau một trận ốm, anh B đột nhiên không nhận thức và làm chủ hành vi của mình và theo yêu cầu của gia đình, tòa án tuyên bố B bị mất năng lực hành vi dân sự. Vì A còn nhỏ và bệnh tình của B cần có người chăm sóc nên hai bố con A về ở với ông bà nội của A. Đến năm 2015, sau một thời gian dài điều trị tích cực, B dần khôi phục lại tình trạng sức khỏe của mình và có kết quả của bệnh viện xác nhận B đã hoàn toàn nhận thức và làm chủ được hành vi của mình như trước đây. Hỏi trong tình huống này, ông bà nội của A có tiếp tục là người giám hộ cho A và anh B không? Năm 2010, B mất năng lực hành vi dân sự và A vẫn là người chưa thành niên nên đòi hỏi phải có người giám hộ. Trong tình huống này thì ông bà nội của A là người giám hộ cho A và anh B. Năm 2015, sau thời gian điều trị, B đã hoàn toàn khôi phục lại tình trạng ban đầu: nhận thức và làm chủ được hành vi. Vì vậy theo yêu cầu của B hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định tại điểm a và c khoản 1 Điều 62 BLDS năm 2015 thì việc giám hộ chấm dứt trong trường hợp: “ Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” ; “ Cha, mẹ của người được giám hộ là người chưa thành niên đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình” nên ông bà nội của A không còn là người giám hộ cho con mình là anh B, đồng thời khi anh B có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình thì ông bà nội của A không là người giám hộ cho A.

Tình huống 26. Ngày 15 tháng 6 năm 2013, đoàn tàu đánh cá của ngư dân vùng biển Quảng Bình mà Nguyễn Văn A là một thành viên, gồm 5 tàu bị gặp bão to khi đang đánh cá trên vùng biển xa đất liền. Sau khi bão tan, có 3 tàu trở về được đất liền. hai tàu còn lại không liên lạc được. Tháng 9 năm 2013, nhờ sự giúp đỡ của tàu thuyền Philipin, gia đình của các ngư dân đã có thông tin của các thành viên trên 1 tàu còn lại, tuy nhiên tàu mà A tham gia lại không có thông tin gì. Trong suốt thời gian đó đến nay, mặc dù gia đình tìm mọi cách nhưng đều không có thông tin của A. Đến tháng 9 năm 2016, do có tranh chấp về tài sản với anh chị em của A nên vợ của A là chị Lê Thị B muốn tuyên bố chồng mất tích để đảm bảo quyền lợi của chồng. Hỏi trong trường hợp này, chị B có thể yêu cầu thực hiện việc tuyên bố mất tích với chồng mình được không? Theo quy định tài Điều 68 BLDS năm 2015 về tuyên bố mất tích thì: một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan thì Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Dựa trên tình huống trên có thể thấy, tin tức cuối cùng mà gia đình A có được về A là ngày 15 tháng 6 năm 2013; đến tháng 9 năm 2016, đã hơn 2 năm A biệt tích không có thông tin gì. Do đó theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015 thì chị B có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích với chồng mình. Quyết định của Tòa án tuyên bố A mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của A để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Tình huống 27. Anh A làm thủy thủ cho một công ty hàng hải X. Vài năm trước, tàu của anh A làm việc gặp sự cố anh A cùng 3 đồng nghiệp của mình bị mất tích ( công ty X cử người tìm kiếm quanh khu vực tàu gặp sự cố nhưng không tìm thấy xác cũng như không có tin tức chứng minh anh A cùng đồng nghiệp còn sống ). Hiện nay, người thân của anh A yêu cầu tòa án tuyên bố anh A chết nhằm thực hiện việc phân chia tài sản. Xin hỏi: yêu cầu của gia đình anh A là đúng hay sai? Trước tiên phải xác định được thời gian anh A đã mất tích một cách cụ thể.

  • Trường hợp anh A mất tích từ 5 năm trở lên hoặc đã được tòa án tuyên bố mất tích từ 3 năm trở lên mà không có tin tức anh A còn sống hay đã chết thì theo quy định tại điểm a, d khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015, yêu cầu của gia đình anh

EU SEAFOOD chưa thỏa mãn được các điều kiện trên, do đó doanh nghiệp mà A đăng ký kinh doanh không được thừa nhận tên gọi này. Tình huống 2 9: Năm 2005, khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn X, hai anh Nguyễn Văn A và Lê Văn B đã huy động mỗi người 5 tỷ đồng cùng với đóng góp của các thành viên khác trong công ty trị giá 5 tỷ đồng. Sau 5 năm hoạt động, công ty đã thu được thêm 20 tỷ đồng lợi nhuận. Tuy nhiên đến cuối năm 2010, do xảy ra mâu thuẫn, A và B không muốn hợp tác kinh doanh với nhau nữa nên B quyết định rút số tiền mình có được trong công ty. Hỏi số tài sản mà công ty trách nhiệm hữu hạn X có bao gồm những khoản nào để từ đó có thể xác định giá trị tài sản của B trong công ty ( tính đến năm 2010) Theo quy định tại Điều 81 BLDS năm 2015 về tài sản của pháp nhân thì : tài sản của pháp nhân bao gồm vốn góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên của pháp nhân và tài sản khá mà pháp nhân được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan. Do vậy, số tài sản mà công ty X có bao gồm tiền đóng góp của A, B và các thành viên khác của công ty, ngoài ra tài sản của công ty còn là lợi nhuận mà công ty thu được trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính đến năm 2010 thì số tài sản mà công ty có là 35 tỷ đồng. Tình huống 30. A là một người thích sưu tập đồ cổ, trong bộ sưu tập của mình, A thích nhất bộ sưu tập tiền cổ. Biết B là một người đang có một vài đồng tiền cổ rất quý, A ngỏ lời mua lại số tiền cổ đó và được B chấp nhận bán. Khi A đã thanh toán cho B ½ số tiền để mua tiền cổ thì B lại từ chối giao tiền cổ. Trong trường hợp này B được coi là vi phạm nghĩa vụ giao tiền không? Và tiền cổ là loại tài sản nào theo quy định của pháp luật hiện hành? Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015 thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, trong đó tiền được hiểu là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước phát hành, có khả năng thanh toán và trao đổi với ba chức năng: công cụ thanh toán, công cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác. Ngoài ra tiền được xác định theo mệnh giá của đồng tiền đó và Nhà nước có quyền tiêu hủy tiền. Tuy nhiên tiền cổ thì dù tên gọi là tiền nhưng không còn mang đầy đủ ba chức năng nêu trên, vì vậy tiền cổ được ghi nhận là vật trong số các tài sản quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015. Trong tình huống này, B được coi là vi phạm nghĩa vụ giao vật đối với A.

Tình huống 3 1: Anh Nguyễn Văn A và chị Đào Thị B là vợ chồng. Anh A là người gốc Việt Nam, có quốc tịch Canada, chị B có quốc tịch Việt Nam. Vợ chồng anh A và chị B có một con trai là cháu Nguyễn Tiến C. C được sinh ra tại Canada nên cũng có quốc tịch Canada theo quy định pháp luật về quốc tịch tại nước này. Khi cháu C được 6 tuổi, gia đình anh A muốn về Việt Nam sinh sống và làm việc, đồng thời để thuận lợi cho C được theo học tại Việt Nam từ cấp tiểu học. Anh A muốn xin trở lại quốc tịch quốc tịch Việt Nam và làm thủ tục cho cháu C được thay đổi quốc tịch để thuận lợi cho những hoạt động học tập và làm việc sau này. Hỏi anh A đã xin thôi quốc tịch Việt Nam thì có quyền được trở lại quốc tịch Việt Nam hay không? BLDS năm 2015 quy định một trong những quyền nhân thân của cá nhân là Quyền đối với quốc tịch. Tất cả các cá nhân đều có quyền có quốc tịch - đây là một trong những nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, và không ai có thể hạn chế quyền này (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Có thể khẳng định, anh A hoàn toàn có quyền có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam nếu như đảm bảo đầy đủ những điều kiện để có thể được trở lại quốc tịch theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tạo mọi điều kiện để cá nhân được thực hiện quyền của mình. Những trường hợp cụ thể công dân được xin trở lại quốc tịch Việt Nam, hồ sơ xin trở lại quốc tịch và trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin trở lại quốc tịch được thực hiện theo quy định tại Điều 23, Điều 24, Điều 25 Luật Quốc tịch năm 2008. Tình huống 32 : Trương Minh A là ca sĩ đang nổi tiếng hàng đầu trong làng giải trí Việt Nam. Ngày 01/02/2017, A đi dự hội thảo về chăm sóc sắc đẹp do hãng mỹ phẩm Z tổ chức. Việc sử dụng hình ảnh của A trong những trường hợp sau đây có vi phạm quy định của pháp luật không:

  1. Phóng viên tại buổi hội thảo viết bài và đăng ảnh chụp buổi hội thảo với hình ảnh khách mời và hình ảnh A đang phát biểu với tư cách khách mời danh dự?
  2. Nhân viên phòng marketing công ty Z đăng ảnh trên trang web của công ty với mục đích thu hút sự chú ý và sự tin tưởng của khách hàng, nhằm giúp công ty tăng thu nhập và lợi nhuận? Mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Về nguyên tắc, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân luôn cần có sự đồng ý của cá nhân đó.