Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

bài tập tiểu luận tư tưởng hồ chí minh, Schemes and Mind Maps of Marketing

tư tưởng độc lập tự do hạnh phục

Typology: Schemes and Mind Maps

2021/2022
On special offer
30 Points
Discount

Limited-time offer


Uploaded on 10/29/2022

ngcky
ngcky 🇻🇳

5

(2)

2 documents

1 / 15

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: “NƯỚC ĐỘC LẬP MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯỢC
HƯỞNG HẠNH PHÚC, TỰ DO THÌ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CŨNG CHẲNG CÓ NGHĨA LÝ
GÌ” VỚI THỰC TRẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY.
Họ và tên SV: Phạm Thị Ngọc
Mã SV: 11217639
Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh_24
GVHD: TS. Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 2022
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
Discount

On special offer

Partial preview of the text

Download bài tập tiểu luận tư tưởng hồ chí minh and more Schemes and Mind Maps Marketing in PDF only on Docsity!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:

LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: “NƯỚC ĐỘC LẬP MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯỢC

HƯỞNG HẠNH PHÚC, TỰ DO THÌ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CŨNG CHẲNG CÓ NGHĨA LÝ

GÌ” VỚI THỰC TRẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY.

Họ và tên SV: Phạm Thị Ngọc

Mã SV: 11217639

Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh_

GVHD: TS. Nguyễn Hồng Sơn

Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 2022

MỤC LỤC

  • MỞ ĐẦU......................................................................................................................................................
  • NỘI DUNG....................................................................................................................................................
    • A. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM......................................................................................................................
    • I. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc..........................................................................................
      1. Về vấn đề dân tộc................................................................................................................................
      1. Về vấn đề độc lập dân tộc....................................................................................................................
    • II. Quan điểm Hồ Chí Minh về xã hội chủ nghĩa.......................................................................................
    • III. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc tiến lên xã hội chủ nghĩa................................................
      1. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa.......................................................
      1. Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách triệt để...............
    • IV. Vận dụng vấn đề độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân..........................
      1. Đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
      1. Kiên định vì một nước Việt Nam "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc".........................................................
    • B. Liên hệ với thực trạng tại VN hiện nay.................................................................................................
  • KẾT LUẬN...................................................................................................................................................
  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................

NỘI DUNG....................................................................................................................................................

A. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM......................................................................................................................

I. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc..........................................................................................

1. Về vấn đề dân tộc................................................................................................................................

Trước Hồ Chí Minh, Mác – Ăng-ghen đã có các quan điểm mang tính chất phương pháp luận để giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc" tao cơ sở cho đường lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể tách rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở lý thuyết của Mác – Lê-nin, Hồ Chí Minh cũng đã tự mình có được nhận thức sâu sắc về vấn đề dân tộc. Không chỉ thấm nhuần được lý tưởng cốt lõi, tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang tính sáng tạo khi vận dụng nó vào Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.

2. Về vấn đề độc lập dân tộc....................................................................................................................

Với nhận thức sâu sắc về vấn đề dân tộc, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm rất đúng đắn về độc lập dân tộc. Đó không chỉ là tri thức cho quá khứ, mà nó còn là hướng đi hiện tại cho dân tộc ta trong tương lai. Trước hết , Người cho rằng độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm nhận thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu tranh giành lại quyền thiêng liêng đó. Trong tuyên ngôn độc lập, được Hồ Chủ tịch đọc ngày 02/09/21945 có viết: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” Đó không chỉ là một lời khẳng định, đó còn là sự quyết tâm bảo vệ tới cùng sự tự do và độc lập của Việt Nam. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Thứ hai , độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người từng khẳng định: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc chẳng có nghĩa lý gì”. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Thứ ba , độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân tộc – chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là nước độc lập phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam. Thứ tư , độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển đất nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.

Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động. Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: "Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là: Mục tiêu chính trị: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Mục tiêu kinh tế: nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học-kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Mục tiêu văn hóa-xã hội: theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu… Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

2. Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách triệt để...............

Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính. Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.

IV. Vận dụng vấn đề độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân..........................

Trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam yêu nước, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc không chỉ là khát vọng lưu truyền mà còn là một hành trình đấu tranh kiên cường, luôn được tiếp sức, để mỗi người dân và con cháu muôn đời mai sau được thụ hưởng những quyền cao cả đó và thấu hiểu sâu sắc hơn giá trị cao quý của những mỹ từ đó. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Quan điểm này của Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:

1. Đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Trên hành trình bôn ba qua nhiều quốc gia, châu lục để tìm con đường giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, giải phóng đồng bào mình khỏi áp bức bất công và cao hơn nữa là giải phóng giai cấp, giải phóng con người, để mỗi dân tộc - mỗi con người đều được sống trong Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, khảo nghiệm và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đã

quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và tự quyền tự quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc mình. Thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại đó và Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quốc dân và thế giới.

2. Kiên định vì một nước Việt Nam "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc".........................................................

Trân trọng giá trị độc lập, tự do của dân tộc đã giành được, không lâu sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 12/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 49 về việc ghi tiêu đề: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm thứ nhất ; bên dưới là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc trên các công văn, điện văn, công điện, trát, đơn từ, báo chí, chúc từ,… Trong 30 năm trường chinh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đầy gian khổ và hy sinh, thắng lợi của trận Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Mùa xuân 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Miền Nam đã được giải phóng, hai miền Nam Bắc đã “sum họp một nhà”, cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử, Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc đã không chỉ là khát vọng mà còn là hệ giá trị vô giá và trở thành trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân kiên định thực hiện. Chính lý tưởng ấy, lẽ sống ấy và niềm tin được sống Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc trong một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất đã trở thành động lực để nhân dân ta nguyện một lòng đi theo Ðảng, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục trong hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, chính thể chế nhà nước cùng những quyền lợi và nghĩa vụ công dân được quy định trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 đã cho thấy, trong điều kiện cụ thể của đất nước, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nỗ lực thực thi quyền con người theo quy định của pháp luật. Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, nước nhà hòa bình, độc lập và thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân cả nước lại tiếp tục đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng vượt qua khó khăn về mọi mặt sau những năm dài chiến tranh, tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Hơn 90 năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hơn 75 năm sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và 35 năm kiên trì thực hiện đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,v.v.. đã góp phần tạo dựng một diện mạo mới của Việt Nam, một vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện đáng kể, bộ mặt của đất nước và cuộc sống của người dân có những thay đổi.

B. Liên hệ với thực trạng tại VN hiện nay.................................................................................................

Sáu chữ quý giá Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ghi dưới quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hiện thân khát vọng của toàn dân tộc; là sự hiện thực hóa tâm nguyện và ý chí "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” của Hồ Chí Minh từ thập niên 1920; đồng thời cũng là sự chắt lọc, vận dụng chất tinh túy trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tế cho thấy, các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong gần 35 năm đổi mới đã luôn hướng tới mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Theo đó, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng... Chính phủ đề ra Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2016 - 2020) với số vốn từ ngân sách trung ương là 41. tỷ đồng. Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, tín dụng…; 70% người dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó, 13% thuộc tầng lớp khá giả theo chuẩn thế giới,... chính là những con số “biết nói”, góp phần từng bước đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai. Chủ trương, đường lối của Đảng, chiến lược, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ đều được xây dựng trên cơ sở lấy người dân làm trung tâm, hướng về người dân và phục vụ người dân đã mang lại những kết quả tích cực trong việc bảo đảm quyền con người, từ quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đến quyền dân sự, chính trị, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Những đóng góp và nỗ lực đầy trách nhiệm của một dân tộc yêu chuộng độc lập, tự do, hòa bình và công lý trên nhiều lĩnh vực, không chỉ trong khu vực mà còn trong cộng đồng quốc tế theo quan điểm "bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cở sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển… là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế"; trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; trong tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định

Ba là, chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu rộng những cá nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan tỏa trong cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo. Những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đứng trước thời cơ, vận hội, thuận lợi và không ít nguy cơ, thách thức, nhưng chính nhờ ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ mà dân tộc ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước; “Thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao,…”.

KẾT LUẬN...................................................................................................................................................

Có thể nói, nêu cao tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là nêu cao giá trị tinh thần, văn minh, chân lý Việt, là thực hiện những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh, là xác định hướng đi đúng đắn theo chỉ dẫn của Người trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai. Nhìn vào tiêu chí đó, chúng ta thấy nhiệm vụ phải thực hiện hàng ngày, đó chính là sự phục tùng và thực hành chân lý của mỗi người Việt Nam. Câu nói: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc chẳng có nghĩa lý gì” đã trở thành mục tiêu và chân lý cho Đảng và nhà nước trong công cuộc đổi mới: xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa giúp người dân được hưởng bình đẳng, văn minh, ấm no, hạnh phúc và đặc biệt là tiến tới thành công của công cuộc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì Hạnh phúc phải đấu tranh cho Tự do. Để có Tự do phải chiến đấu giành lấy Độc lập và xây dựng xã hội mới ngày càng đảm bảo cho sự hoàn thiện của tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Cho dù thế giới có những biến đổi, nhưng tiêu chí đó vẫn là mục tiêu mà các dân tộc hướng đến. Trên ý nghĩa đó, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là tầm nhìn thời đại, biểu thị những giá trị và kết tinh những nội dung cơ bản nhất của văn hóa Hồ Chí Minh.